Tôi sinh ra và lớn lên tại thị xã Tuyên quang. Một thị xã nhỏ nằm bên bờ con sông Lô trong xanh, uốn lượn hiền hòa nhưng đầy hung dữ khi mùa nước lên. Ngày đó thị xã vẵn nằm trong Tỉnh Hà tuyên khi chưa chia tách với Hà giang. Trong ký ức chỉ là những dãy nhà lụp xụp và vài con đường chạy trong trung tâm, vài dãy bàng bám bụi đường đỏ quạch trong cái nắng gay gắt và bụi hè đường...
Ngày đó cuộc sống cũng khó khăn, bố mẹ mở cho tôi một cái quán nhỏ trước cổng nhà, bên kia đường để kiếm thêm phụ gia đình những lúc nghỉ học (hồi đó tôi đã lên cấp II) đối diện với nhà tôi là một cơ quan thực phẩm của huyện giáp ranh. quán nước tuy bé nhưng lúc nào cũng đông khách vì mọi người đi mua hàng trong lúc chờ đợi đều ra ngồi uống nước, trao đổi ít tem phiếu hay vài lọ thuốc lấy các laoị thực phẩm khác.
Những năm giưã thập kỷ 8x. Chiến tranh biên giới phía Bắc nổ ra tại Hà giang, thị xã thành nơi trung chuyển những đoàn quân từ miền xuôi lên biên giới. Đến năm 87, 88 tuy đã vãn tiếng súng nhưng dư âm vẫn còn, thỉnh thoảng từng đoàn bộ đội vẫn hành quân đi qua, họ đi đâu, không ai biết!
Lúc đó cũng là lúc rộ lên phong trào đi tìm, đào đãi vàng ở một số huyện vùng cao Hà giang – Tuyên quang. cũng từng đoàn người từ miền xuôi lũ lượt đổ xô lên đi qua thị xã nhỏ bé của tôi. Nó cũng mang lại cơn địa chấn về sự tò mò cho bọn nửa trẻ con, nửa sắp bắt đầu thành người nhớn không khác gì khi đi xem những đoàn quân đi... oánh nhau.
Quán nước của tôi bắt đầu ế ầm vì lúc đó kinh tế thị trường đã bắt đầu xuất hiện, chợ búa mở nhiều, có nhiều hàng hóa, người ta không cần cứ phải đến xếp hàng tại các quầy lương thực vừa khó mua vừa nghe mấy cô nhân viên thương nghiệp chửi như hát hay nữa. Nhưng có hai loại khách hàng khác hay ghé vào mua và... bán hàng.
Loại khách hàng thứ nhất là những người lính, họ có thể ở các đơn vị gần đó hoặc từ xuôi lên đi trả phép hoặc từ biên giới đi về phép, chỉ vài người một với những bộ quân phục K82 màu cỏ úa cũ kỹ, nhàu nát, chiếc mũ cối cúp chụp lên chiếc đầu đã lót chiếc khăn mặt lính màu cháo lòng che phủ gáy khỏi ánh nắng chói chang mùa hè. Những chiếc ba lô lép kẹp, mồ hôi nhế nhại bước vào quán của tôi, chủ yếu là uống bát nước vối hay chè xanh, ăn vài chiếc kẹo dồi chó, kẹo lạc và mượn cái điếu cày bắn vài điếu. Đôi khi họ cũng có những món hàng là vài bánh xà phòng 64 hay 72% hàng nhu yếu phẩm hoặc nhờ hỏi có ai đánh cá để họ bán cho ít thuốc. Nhièu lúc muộn chạng vạng họ cũng gọi chai rượu và... ầm ĩ khi tranh luận với nhau. Khi biết nhà tôi có mấy ông chú cũng là sĩ quan vẫn đang phục vụ BGPB chưa về tự dưng thấy họ có vẻ nể rồi ý tứ im hẳn.
Ngày đó cuộc sống cũng khó khăn, bố mẹ mở cho tôi một cái quán nhỏ trước cổng nhà, bên kia đường để kiếm thêm phụ gia đình những lúc nghỉ học (hồi đó tôi đã lên cấp II) đối diện với nhà tôi là một cơ quan thực phẩm của huyện giáp ranh. quán nước tuy bé nhưng lúc nào cũng đông khách vì mọi người đi mua hàng trong lúc chờ đợi đều ra ngồi uống nước, trao đổi ít tem phiếu hay vài lọ thuốc lấy các laoị thực phẩm khác.
Những năm giưã thập kỷ 8x. Chiến tranh biên giới phía Bắc nổ ra tại Hà giang, thị xã thành nơi trung chuyển những đoàn quân từ miền xuôi lên biên giới. Đến năm 87, 88 tuy đã vãn tiếng súng nhưng dư âm vẫn còn, thỉnh thoảng từng đoàn bộ đội vẫn hành quân đi qua, họ đi đâu, không ai biết!
Lúc đó cũng là lúc rộ lên phong trào đi tìm, đào đãi vàng ở một số huyện vùng cao Hà giang – Tuyên quang. cũng từng đoàn người từ miền xuôi lũ lượt đổ xô lên đi qua thị xã nhỏ bé của tôi. Nó cũng mang lại cơn địa chấn về sự tò mò cho bọn nửa trẻ con, nửa sắp bắt đầu thành người nhớn không khác gì khi đi xem những đoàn quân đi... oánh nhau.
Quán nước của tôi bắt đầu ế ầm vì lúc đó kinh tế thị trường đã bắt đầu xuất hiện, chợ búa mở nhiều, có nhiều hàng hóa, người ta không cần cứ phải đến xếp hàng tại các quầy lương thực vừa khó mua vừa nghe mấy cô nhân viên thương nghiệp chửi như hát hay nữa. Nhưng có hai loại khách hàng khác hay ghé vào mua và... bán hàng.
Loại khách hàng thứ nhất là những người lính, họ có thể ở các đơn vị gần đó hoặc từ xuôi lên đi trả phép hoặc từ biên giới đi về phép, chỉ vài người một với những bộ quân phục K82 màu cỏ úa cũ kỹ, nhàu nát, chiếc mũ cối cúp chụp lên chiếc đầu đã lót chiếc khăn mặt lính màu cháo lòng che phủ gáy khỏi ánh nắng chói chang mùa hè. Những chiếc ba lô lép kẹp, mồ hôi nhế nhại bước vào quán của tôi, chủ yếu là uống bát nước vối hay chè xanh, ăn vài chiếc kẹo dồi chó, kẹo lạc và mượn cái điếu cày bắn vài điếu. Đôi khi họ cũng có những món hàng là vài bánh xà phòng 64 hay 72% hàng nhu yếu phẩm hoặc nhờ hỏi có ai đánh cá để họ bán cho ít thuốc. Nhièu lúc muộn chạng vạng họ cũng gọi chai rượu và... ầm ĩ khi tranh luận với nhau. Khi biết nhà tôi có mấy ông chú cũng là sĩ quan vẫn đang phục vụ BGPB chưa về tự dưng thấy họ có vẻ nể rồi ý tứ im hẳn.