Diễn đàn Chiến Sĩ Trẻ Việt Nam
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Diễn đàn Chiến Sĩ Trẻ Việt NamĐăng Nhập

Nơi giao lưu cho các đ/c và các bạn đang công tác hoặc yêu mến lực lượng Vũ trang Nhân dân Việt Nam


descriptionChếtLịch Sử Tình Yêu

more_horiz
Một tác phẩm văn chương hóm hỉnh, cảm động, ẩn giấu nhiều khao khát... định hình bởi những nhân vật sắc sảo, có khả năng rung động tận cùng trái tim.
Leo Gursky, người bị lạc mất bản thảo “Lịch sử tình yêu”, cuốn sách của cuộc đời, do chính ông viết về mối tình lớn nhất của mình. Trong những ngày cuối đời còn lại ở New York, Leo sống trong nỗi bận tâm thường trực rằng điều gì của bản thân sẽ còn lại khi chuỗi ngày cuối cùng của ông sẽ hết…

Alma Singer, mười ba tuổi, tên cô được đặt theo một phụ nữ trong cuốn sách mà cha cô đã tặng mẹ cô - cuốn sách có tên LSTY, được xuất bản ở Chi Lê dưới cái tên nào đó không phải Leo Gursky. Để tìm ra phương thuốc chữa trầm cảm cho mẹ sau cái chết của cha, cô bắt đầu hành trình đi tìm người viết cuốn sách…
truyen8.mobi

Như một bức họa tinh tế, Lịch sử tình yêu thể hiện sự nối kết phi thường những mảnh đời tưởng chừng cách xa nhau. Cuộc đời các nhân vật lần lượt mở ra trong bí ẩn, riêng biệt, nhưng gắn với nhau bằng cảm xúc mãnh liệt. Nỗi đau được ghi lại bằng sự hóm hỉnh, sự nhẹ nhõm của văn phong không loại trừ những câu hỏi sáng rực về bản chất cuộc đời. Ở đây, mọi chủ đề lớn của một câu chuyện nhân bản đã cùng nhau quy tụ về: ngôn ngữ, di cư, sức mạnh của tình yêu, khoảnh khắc và thời gian…

descriptionChếtChương 1: Những lời cuối cùng trên Trái đất

more_horiz
Lúc người ta viết cáo phó cho tôi. Ngày mai. Hay là ngày kia. Cáo phó sẽ viết: LEO GURSKY ĐỂ LẠI MỘT CĂN HỘ ĐẦY PHÂN. Tôi ngạc nhiên tại sao mình còn chưa bị chôn sống. Nơi này không được rộng. Tôi phải vất vả lắm mới giữ được một lối đi lại giữa giường và toilet, giữa toilet và bàn ăn, giữa bàn ăn và cửa trước. Giả sử tôi muốn đi từ toilet ra cửa trước ư, chịu chết, phải vòng qua bàn ăn mới được. Tôi thích tưởng tượng giường là chốt nhà, toilet là chốt một, bàn ăn là chốt hai, cửa trước là chốt ba: giả sử có tiếng chuông cửa lúc tôi đang nằm trên giường, tôi sẽ phải vòng qua toilet và bàn ăn để ra tới cửa. Nếu đó là Bruno, tôi lẳng lặng mở cửa cho cậu ấy vào rồi chạy trở lại giường, tiếng hò reo của đám khán giả vô hình vang dội trong tai. Truyen8.mobi

Tôi thường tự hỏi ai sẽ là người cuối cùng trông thấy tôi còn sống. Nếu phải cá, tôi sẽ đặt cược vào thằng bé giao hàng của tiệm đồ Tàu. Một tuần thì đến bốn tối tôi gọi đồ. Lần nào nó tới tôi cũng loay hoay tìm ví tiền thật lâu. Khi thằng bé đứng ở cửa cầm chiếc túi vấy mỡ, tôi tự hỏi liệu có phải đêm nay tôi sẽ ăn nốt chiếc nem rán, leo vào giường, và rồi lên cơn đau tim trong lúc ngủ hay không.

Tôi cố gắng để được người khác nhìn thấy. Đôi khi ra ngoài, tôi mua chút nước quả ép dù chẳng hề thấy khát. Nếu cửa hàng đông người, tôi sẽ làm quá tới mức cố tình làm tiền lẻ rơi vương quý báu thay khắp sàn nhà, xu lớn xu nhỏ văng tung tóe mọi hướng. Tôi sẽ quỳ xuống. Phải cố gắng lắm tôi mới có thể quỳ gối, song đứng lên còn đòi hỏi nỗ lực lớn hơn. Nhưng chưa hết. Có lẽ trông tôi chẳng khác nào thằng ngốc. Tôi vào cửa hàng giày Athlete’s Foot và hỏi Ở đây có những loại giày thể thao nào nhỉ? Tay bán hàng sẽ nhìn tôi như nhìn một gã khờ (mà đúng tôi là kẻ khờ thật) và chỉ tôi tới một đôi Rockport họ có, một đôi trắng toát. Không, tôi sẽ nói thế, tôi có đôi này rồi, sau đó tôi đến khu bán sản phẩm của hãng Reebok và nhặt ra một món thậm chí trông còn chẳng giống giày, có lẽ là đôi bốt chống ướt, rồi hỏi lấy cỡ 9. Cậu trai sẽ ngó tôi lần nữa, cẩn thận hơn. Cậu ta sẽ nhìn săm soi thật lâu. Cỡ 9, tôi sẽ nhắc lại, tay nắm chặt đôi giày dệt. Cậu ta sẽ lắc đầu và đi về phía sau để lấy giày, đến lúc cậu ta trở lại thì tôi đang tuột tất ra. Tôi sẽ kéo hai ống quần lên và nhìn xuống thứ già nua nhàu nhĩ ấy - hai bàn chân tôi, và một phút bối rối sẽ trôi qua cho tới lúc cậu trai nhận ra là tôi đang đợi cậu ta xỏ giùm đôi bốt. Thực sự thì chẳng bao giờ tôi mua cả. Tất cả những gì tôi muốn là không chết vào một ngày không có ai trông thấy mình. Truyen8.mobi

Cách đây vài tháng tôi thấy một mẩu quảng cáo trên báo. Nội dung: TÌM NGƯỜI MẪU KHỎA THÂN CHO LỚP VẼ. 15 ĐÔ/GIỜ. Có vẻ tốt đến mức không tin nổi. Được người ta nhìn thường xuyên. Rất nhiều người. Tôi gọi theo số điện thoại trong quảng cáo. Một phụ nữ bảo tôi có mặt vào thứ Ba tuần sau đó. Tôi cố gắng mô tả bản thân nhưng bà ta không quan tâm. Thế nào cũng tốt hết, bà ta bảo.

Ngày trôi qua chậm chạp. Tôi kể với Bruno nhưng cậu ta hiểu lầm và nghĩ rằng tôi đăng ký lớp học vẽ để được nhìn các cô gái khỏa thân. Cậu ta không muốn tôi đính chính. Họ phô ngực hả? cậu hỏi tôi. Tôi nhún vai. Cả phần dưới nữa chứ?

Sau khi bà Freid trên tầng bốn chết và phải mất ba ngày mới có người phát hiện ra, Bruno và tôi bắt đầu có thói quen kiểm tra tình hình của nhau. Chúng tôi bịa ra những cái cớ nho nhỏ - Tớ hết giấy vệ sinh rồi, tôi nói vậy khi Bruno mở cửa. Một ngày trôi qua. Sẽ có tiếng gõ cửa phòng tôi. Tớ mất cuốn chương trình truyền hình rồi, cậu sẽ giải thích, còn tôi đi tìm cuốn của mình dù biết rằng cuốn của Bruno vẫn luôn nằm trên ghế băng. Có một lần cậu ta xuất hiện vào chiều Chủ nhật. Tớ cần một chén bột mì, cậu nói. Thật là một cái cớ vụng về, song tôi không thể kìm nổi mình. Cậu đâu biết nấu ăn, tôi nói. Một khoảng im lặng. Bruno nhìn vào mắt tôi. Cậu thì biết gì, cậu ta nói, tớ sắp nướng bánh.

Khi tới Mỹ tôi chẳng quen biết ai ngoài một người họ hàng là thợ khóa, vì vậy tôi làm việc cho ông. Nếu ông là thợ đóng giày thì tôi cũng đã là thợ đóng giày rồi; nếu ông làm nghề xúc phân, tôi cũng đã đi xúc phân rồi. Nhưng ông là thợ khóa. Ông dạy nghề này cho tôi, và đó là nghề tôi đã theo. Chúng tôi cùng mở một cửa hiệu nho nhỏ, rồi một năm nọ ông mắc bệnh lao, người ta phải cắt bỏ lá gan, rồi ông sốt tới 41 độ và chết, thế nên tôi quản lý cửa hiệu. Tôi gửi cho vợ ông một nửa tiền lãi, ngay cả khi bà đã tái giá với một ông bác sĩ và chuyển tới Bay Side. Tôi làm nghề sửa khóa hơn năm mươi năm. Tôi chưa từng tưởng tượng mình sẽ thành như vậy. Ấy thế nhưng. Sự thực là tôi dần thích nghề này. Tôi giúp những người bị khóa bên ngoài được vào trong, với những người khác thì tôi giúp họ bỏ lại bên ngoài những thứ không thể cho vào, vì vậy họ có thể ngủ mà không gặp ác mộng. Truyen8.mobi

Rồi một hôm tôi nhìn ra cửa sổ. Có lẽ lúc đó tôi đang ngắm bầu trời. Trước cửa sổ thì thậm chí một thằng ngốc cũng trở thành Spinoza. Chiều trôi qua, bóng tối buông dần. Tôi với tay giật dây bật bóng điện và đột nhiên thấy như thể vừa bị một con voi giẫm lên tim. Tôi ngã khuỵu gối. Tôi nghĩ: mình không sống được mãi. Một phút trôi qua. Rồi một phút nữa. Tôi bấu ngón tay xuống sàn, lê mình về phía chiếc điện thoại.

Hai mươi lăm phần trăm cơ tim tôi ngừng hoạt động. Phải cần nhiều thời gian phục hồi, tôi không bao giờ trở lại làm việc nữa. Một năm trôi qua. Tôi ý thức được thời gian trôi đi thật vô tình. Tôi đăm đăm nhìn ra cửa sổ. Tôi theo dõi mùa thu chuyển sang đông. Rồi đông bước sang xuân. Có vài hôm Bruno xuống gác ngồi cùng tôi. Chúng tôi biết nhau từ khi còn là trẻ con, hai đứa cùng học với nhau. Cậu là một trong số bạn thân nhất của tôi, cậu đeo cặp kính dày, có mái tóc hung hung đỏ mà cậu vốn rất ghét và giọng nói vỡ ra khi xúc động. Trước đây tôi không biết rằng Bruno vẫn còn sống, rồi một ngày tôi đang đi bộ dọc đường East Broadway thì nghe thấy giọng cậu. Tôi quay lại. Bruno xây lưng lại phía tôi, đang đứng trước một hiệu tạp hóa hỏi giá thứ quả gì đó. Tôi nghĩ: đ/c chỉ tưởng tượng ra thôi, đ/c đúng là kẻ ngủ mơ, làm thế quái nào đó lại là bạn thời thơ ấu của đ/c được chứ? Tôi đứng như trời trồng trên vỉa hè. Cậu ta nằm dưới lòng đất rồi, tôi tự nhủ. đ/c đang ở đây giữa nước Mỹ, nơi có tiệm ăn nhanh McDonald cơ mà, tỉnh lại đi. Tôi chờ đợi, chỉ để thật chắc chắn. Tôi đã không nhận ra mặt cậu ấy. Nhưng. Dáng đi của cậu ấy không lẫn vào đâu được. Khi cậu sắp sửa bước qua tôi, tôi chìa cánh tay ra. Tôi không biết mình đang làm gì nữa, có khi chỉ là tôi đang tưởng tượng, tôi túm lấy tay áo cậu. Bruno, tôi nói. Cậu dừng bước xoay người lại. Ban đầu cậu có vẻ sợ hãi rồi bối rối. Bruno. Cậu nhìn tôi, hai mắt bắt đầu ướt lệ. Tôi nắm lấy bàn tay kia của Bruno. Tôi đã nắm được một bàn tay và một tay áo. Bruno. Người cậu bắt đầu run lên. Cậu đưa tay lên chạm vào má tôi. Chúng tôi cùng đứng giữa vỉa hè, mọi người vội vã bước qua, đó là một ngày tháng Sáu ấm áp. Mái tóc Bruno mỏng và bạc trắng. Cậu làm rơi túi quả. Bruno. Truyen8.mobi

Vài năm sau vợ Bruno mất. Không chịu nổi khi sống trong căn hộ ấy mà không có vợ, mọi thứ đều khiến Bruno nhớ tới cô, thế nên khi có một căn hộ ở tầng trên nhà tôi chuyển đi thì cậu chuyển vào. Chúng tôi thường ngồi với nhau ở bàn ăn phòng tôi. Có khi cả buổi chiều trôi qua mà cả hai chẳng nói một lời. Nếu nói chuyện, chúng tôi không bao giờ dùng tiếng Yiddish. Ngôn ngữ của thời niên thiếu trở nên lạ lẫm với cả hai - chúng tôi không thể sử dụng nó được như cũ, vì thế cả hai chọn cách không bao giờ dùng tới nữa. Cuộc sống đòi hỏi một ngôn ngữ mới.

Bruno, người bạn già chung thủy của tôi. Tôi vẫn chưa mô tả cậu ấy cho thật đầy đủ. Liệu có đủ khi nói rằng cậu là người không thể tả nổi? Không. Thà thử rồi thất bại còn hơn không thử lần nào. Phần chân tóc trắng mềm mại của cậu khẽ phất phơ trên lớp da đầu như bông bồ công anh mào lông chỉ còn lơ thơ. Nhiều lần, Bruno ạ, tớ rất muốn được thổi vào đầu cậu và ước một điều. Chỉ một chút lịch sự còn sót lại mới ngăn tớ không làm điều ấy. Hoặc có lẽ tớ nên bắt đầu với chiều cao của cậu, vốn rất hạn chế. Có cố lắm thì cậu hầu như cũng không cao tới ngực tớ. Hay tớ sẽ bắt đầu với cặp mắt kính cậu đã thó từ một cái hộp rồi tuyên **đó là đồ của cậu, hai thứ tròn to khủng khiếp đã khiến mắt cậu lồi ra đến mức phản ứng thường xuyên của cậu trông như là có động đất 4,5 độ Richter? Đó là mắt kính dành cho phụ nữ, Bruno! Tớ chưa bao giờ có gan nói thật với cậu điều đó. Nhiều lần tớ đã thử. Còn nữa. Hồi nhỏ, cậu là đứa viết lách giỏi hơn. Hồi ấy tớ quá tự phụ nên không nói với cậu điều ấy. Nhưng. Tớ biết. Hãy tin lời tớ, hồi ấy tớ biết rõ điều đó cũng như bây giờ vậy. Tớ đau đớn khi nghĩ tới chuyện mình chưa bao giờ nói với cậu điều đó, cũng như khi nghĩ về tất cả những gì lẽ ra cậu đã có thể đạt được nếu biết về năng khiếu của bản thân. Tha lỗi cho tớ, Bruno. Người bạn lâu năm nhất của tớ. Người bạn thân thiết nhất. Tớ vẫn chưa công bằng với cậu. Khoảng cuối đời tớ cậu đã gần gũi với tớ như vậy. Cậu, đặc biệt là cậu, có lẽ đã tìm ra ngôn từ cho tất cả.

Một lần, cách đây lâu rồi, tôi thấy Bruno nằm giữa sàn phòng khách, bên cạnh một lọ thuốc đã hết sạch. Cậu ấy đã chịu đựng quá đủ. Tất cả những gì cậu ấy muốn là ngủ vĩnh viễn. Bên ngực cậu dán một mẩu giấy ghi: TẠM BIỆT NHỮNG NGƯỜI THÂN YÊU. Tôi hét lên. KHÔNG, BRUNO, KHÔNG, KHÔNG, KHÔNG, KHÔNG, KHÔNG! Tôi tát vào mặt cậu, đột nhiên hai mắt Bruno vụt mở. Ánh mắt cậu lờ đờ trống rỗng. TỈNH DẬY ĐI, ĐỒ BỎ ĐI! tôi hét lên. NGHE TỚ NÀY: CẬU PHẢI TỈNH DẬY! Hai mắt Bruno lại vụt mở lần nữa. Tôi gọi 911. Tôi đổ đầy một bát nước lạnh rồi hắt vào mặt cậu. Tôi áp tai vào ngực cậu. Rất xa, một tiếng còi vẳng lại. Xe cứu thương tới. Ở bệnh viện người ta bơm rửa dạ dày Bruno. Tại sao ông uống hết số thuốc ấy? bác sĩ hỏi. Nôn nao, kiệt sức, Bruno bình thản nhướng hai mắt. ÔNG NGHĨ VÌ SAO TÔI UỐNG HẾT CHỖ THUỐC ẤY? cậu rít lên. Phòng hồi sức đột ngột yên lặng, ai nấy đều chằm chằm nhìn cậu. Bruno rên lên và quay vào trong tường. Đêm đó tôi đặt cậu vào giường. Bruno, tôi nói. Rất xin lỗi, cậu nói. Thật ích kỷ. Tôi thở dài quay người chuẩn bị bỏ đi. Ở lại với tớ! cậu kêu lên.

Sau đó chúng tôi không bao giờ nói về chuyện ấy. Cũng hệt như chúng tôi chẳng bao giờ nói về thời thơ ấu, về những ước mơ cả hai cùng chia sẻ rồi đánh mất, về mọi thứ đã xảy ra và đã không xảy ra. Một lần chúng tôi im lặng ngồi cùng nhau. Đột nhiên một trong hai bật cười. Thế rồi tiếng cười lan sang người kia. Chẳng có lý do gì để cười nhưng chúng tôi bắt đầu khúc khích, tiếp theo chúng tôi rung cả người trên ghế rồi rú lên, rú lên cười, nước mắt chảy đầy xuống má cả hai. Một đốm ướt xuất hiện trên đũng quần tôi, điều đó khiến chúng tôi cười dữ hơn, tôi đập bàn thình thình và cố thở, tôi nghĩ: có thể tôi sẽ ra đi như thế này, trong một tràng cười, còn gì tốt hơn được chứ, cười và khóc, cười và hát, cười để quên đi rằng tôi đơn độc, rằng đó là điểm kết của cuộc đời tôi, rằng thần chết đang đợi tôi ngoài cửa. Truyen8.mobi

Hồi nhỏ, tôi thích viết. Viết là việc duy nhất tôi muốn làm khi lớn lên. Tôi tạo ra những con người tưởng tượng và viết chuyện của họ vào đầy những cuốn vở. Tôi viết về một cậu bé lớn lên người ngợm lông lá tới mức người ta săn đuổi cậu để lấy lông. Cậu phải nấp trong các lùm cây, thế rồi cậu đem lòng yêu một con chim kiêu kỳ hợm hĩnh. Tôi viết về cặp sinh đôi có cơ thể dính nhau, một trong hai kẻ đó yêu tôi. Tôi hình dung những cảnh làm tình hết sức độc đáo. Nhưng chưa hết. Khi lớn lên, tôi đã quyết định rằng mình muốn trở thành một nhà văn thật sự. Tôi cố viết về những điều có thật. Tôi muốn mô tả thế giới, bởi sống trong một thế giới không được mô tả thì thật quá cô đơn. Trước khi bước sang tuổi hai mốt tôi đã viết được ba cuốn sách, có Chúa mới biết chuyện gì xảy ra với ba cuốn sách ấy. Cuốn đầu tiên viết về Slonim, thị trấn tôi sống mà lúc thì thuộc về Ba Lan, lúc lại thuộc về Nga. Tôi đã vẽ một bản đồ thị trấn để làm minh họa, ghi rõ các tòa nhà và cửa hiệu, chỗ này là hàng thịt Kipnis, đây là nhà may Grodzenski, còn đây là nơi sống của Fishl Shapiro - người mà chẳng ai xác định được là tzaddik hay là kẻ đần độn, đây quảng trường và khoảng sân chúng tôi đã chơi, đây là nơi con sông nở ra và đây là chỗ nó hẹp lại, đây là nơi bắt đầu cánh rừng, còn đây là ngọn cây mà Beyla Asch đã treo cổ, đây và đây nữa. Ấy thế nhưng. Khi tôi trao cuốn sách cho người duy nhất ở Slonim có ý kiến mà tôi quan tâm, cô chỉ nhún vai bảo rằng nếu tôi tự tưởng tượng được thì cô thấy thích hơn. Vậy nên tôi viết cuốn sách thứ hai và nghĩ ra nhiều thứ. Tôi đưa vào đó những người mọc cánh, những cây có bộ rễ đâm lên trời, những người quên mất cả tên của mình và những người không thể quên được điều gì; tôi thậm chí còn sáng tạo ra từ ngữ mới. Khi đã hoàn thành, tôi chạy một mạch tới nhà cô. Tôi lao qua cửa, đâm bổ lên gác và đưa cuốn sách cho người duy nhất ở Slonim có ý kiến mà tôi quan tâm. Tôi dựa vào tường và quan sát khuôn mặt cô trong lúc cô đọc. Bên ngoài trời đã tối nhưng cô vẫn đọc. Nhiều giờ trôi qua. Tôi thả người trượt xuống sàn. Cô cứ đọc và đọc. Khi xong, cô ngước lên. Một lúc khá lâu cô không nói gì. Rồi cô nói rằng có lẽ tôi không nên bịa ra mọi thứ bởi như vậy sẽ thật khó tin nổi bất cứ điều gì.

Người khác có lẽ đã bỏ cuộc. Tôi thì bắt đầu lần nữa. Lần này tôi không viết về những thứ có thật và cũng không viết về những thứ tưởng tượng ra. Tôi viết về điều duy nhất tôi biết. Các trang viết cứ dày lên. Ngay cả sau khi người duy nhất có ý kiến mà tôi quan tâm đã lên tàu đi Mỹ, tôi vẫn tiếp tục viết tên cô đầy các trang.

Sau khi cô ra đi, mọi thứ trở nên hỗn loạn. Không người Do Thái nào được an toàn. Có tin đồn về những chuyện bí hiểm, và vì không thể tìm hiểu đúng sai ra sao nên chúng tôi không tin, cho tận tới khi chúng tôi không có lựa chọn nào khác, lúc ấy đã quá muộn. Khi ấy tôi đang làm việc ở Minsk nhưng mất việc nên về nhà ở Slonim. Quân Đức tiến về phía Đông. Chúng đến ngày càng gần hơn. Một buổi sáng chúng tôi nghe tiếng xe tăng của chúng tiến đến, mẹ bảo tôi vào nấp trong rừng. Tôi muốn đưa thằng em út theo, nó mới mười ba tuổi, nhưng mẹ bảo tự bà sẽ dẫn nó. Sao tôi lại nghe lời nhỉ? Vì như vậy dễ hơn à? Tôi rời nhà chạy vào rừng. Tôi nằm yên dưới đất. Có tiếng quý báu thay sủa phía xa. Nhiều giờ trôi qua. Rồi những tiếng súng. Rất nhiều tiếng súng. Vì lý do nào đó mọi người không la hét. Hoặc có lẽ tôi đã không nghe thấy tiếng họ la hét. Sau đó chỉ còn im lặng. Người tôi tê liệt, tôi nhớ rằng mình cảm thấy vị máu ở miệng. Giờ tôi cũng không biết khi ấy đã bao thời gian trôi qua nữa. Nhiều ngày. Tôi không bao quay trở về. Khi tỉnh lại, tôi đã đánh mất cái phần duy nhất trong tôi từng nghĩ rằng mình sẽ tìm được ngôn từ diễn tả dù chỉ một phần nhỏ nhất của cuộc sống. Truyen8.mobi

Ấy thế nhưng.

Vài tháng sau cơn đau tim, năm mươi bảy năm sau khi từ bỏ, tôi bắt đầu viết trở lại. Tôi làm việc ấy chỉ vì mình, không vì bất kỳ người nào khác, đó là sự khác biệt. Chuyện tìm kiếm ngôn từ không còn là vấn đề, và quan trọng hơn, tôi biết rằng tìm được từ đúng cũng là điều không thể. Và vì chấp nhận rằng điều tôi đã từng tin là có thể thực ra lại là bất khả, và bởi biết mình sẽ không cho bất kỳ ai đọc một từ nào trong những dòng ấy, tôi viết một câu:

Ngày xưa có một cậu bé.

Câu này vẫn nằm yên đó, trong suốt nhiều ngày cứ thế chăm chăm nhìn lên từ cái nếu không có thì sẽ là trang giấy trắng. Tuần sau đó tôi viết câu tiếp theo. Rồi chẳng mấy chốc có cả một trang. Điều ấy làm tôi hạnh phúc, giống như nói chuyện thật to với chính mình vậy - việc đôi khi tôi vẫn hay làm.

Một lần tôi bảo Bruno, Thử đoán xem tớ viết được bao nhiêu trang rồi?

Chịu, cậu nói.

Viết thử một con số rồi chuyển qua bàn đi, tôi nói. Bruno nhún vai và rút trong túi ra một cây bút. Cậu nghĩ một hai phút gì đó, quan sát kỹ mặt tôi. Đoán chuẩn đi, tôi nói. Cậu tì người trên khăn ăn, nguệch ngoạc một con số rồi chuyển cho tôi. Tôi viết lên khăn ăn của mình con số thực tế - 301. Chúng tôi đẩy hai chiếc khăn ăn qua bàn. Tôi cầm khăn của Bruno lên. Tôi không thể giải thích vì sao cậu lại viết số 200.000. Cậu cầm khăn ăn lên rồi đưa trả lại tôi. Mặt cậu dài thượt ra.

Đôi lúc tôi tin rằng trang cuối cùng cuốn sách của tôi và trang cuối cùng của đời tôi chỉ là một thôi, hoàn toàn giống nhau, rằng khi cuốn sách kết thúc thì đời tôi cũng chấm dứt, một cơn gió lớn sẽ quét qua cả căn hộ của tôi và đưa những trang viết đi, và khi trong không trung không còn những trang giấy trắng chấp chới nữa, căn phòng sẽ chỉ còn sự yên lặng, chiếc ghế tôi từng ngồi sẽ bỏ trống.

Sáng nào tôi cũng viết thêm một chút. Ba trăm lẻ một trang không phải không có ý nghĩa gì. Đôi lúc sau khi viết xong, tôi đi xem phim. Với tôi thì đó luôn là một sự kiện lớn. Có thể tôi mua chút bắp rang bơ và khi có người xung quanh trông thấy, tôi sẽ làm đổ vương quý báu thay. Tôi sẽ ngồi ở hàng ghế đầu để màn ảnh choán hết tầm nhìn của mình sao cho không gì làm tôi mất tập trung vào khoảnh khắc ấy. Và tôi muốn khoảnh khắc đó kéo dài mãi mãi. Tôi không thể nói cho bạn hiểu tôi hạnh phúc thế nào khi ngồi ở đó xem phim, hình ảnh phóng đại lên. Tôi có thể nói là lớn lao hơn cuộc sống, dù chưa bao giờ tôi hiểu được nghĩa của cụm từ này. Cái gì lớn lao hơn cuộc sống chứ? Ngồi hàng ghế trên cùng nhìn lên gương mặt của cô gái đẹp cao bằng tòa nhà hai tầng và để những xung động từ giọng nói của cô vỗ về hai chân sẽ khiến ta nhớ đến tầm vóc thực của cuộc sống. Vậy nên tôi ngồi hàng ghế đầu tiên. Nếu tôi ra về với cảm giác cứng đơ ở cổ và sự cương cứng đang giảm dần thì chỉ bởi đó là chỗ ngồi tốt. Không phải tôi là kẻ bậy bạ. Tôi là người muốn được lớn lao ngang tầm cuộc sống.

Trong cuốn sách của tôi có những đoạn tôi thuộc lòng.

Thuộc lòng, tôi không sử dụng từ đó một cách bừa bãi đâu. Truyen8.mobi

Trái tim tôi yếu ớt, không đáng tin. Khi tôi ra đi, đó sẽ là do tim tôi. Tôi cố gắng hết sức giảm tải cho nó. Nếu có điều gì có thể gây ảnh hưởng, tôi sẽ hướng điều ấy đi chỗ khác. Chẳng hạn như đến ruột, hoặc hai lá phổi - những thứ có thể đột nhiên nghẹt lại một chút nhưng chưa bao giờ phải ngừng một nhịp thở. Khi tôi đi qua một tấm gương và liếc diện mạo của mình trong đó, hoặc khi đang ở bến xe buýt mà có vài đứa trẻ ranh đến phía sau tôi và nói, Ai có mùi cứt thế nhỉ? - những điều nhỏ nhặt làm mất thể diện vẫn xảy ra hằng ngày - những chuyện như thế thì nhìn chung tôi sẽ dùng gan tiếp nhận. Những tổn thương khác tôi đưa vào những bộ phận khác. Tuyến tụy thì tôi dành để chịu đựng tất cả những gì đã đánh mất. Sự thật là có quá nhiều thứ mà cơ quan đó lại rất nhỏ. Nhưng bạn sẽ thấy ngạc nhiên là nó có thể chịu đựng nhiều đến mức nào, tất cả những gì tôi cảm thấy chỉ là một cơn đau nhói nhanh qua. Đôi khi tôi tưởng tượng cảnh giải phẫu chính mình. Thất vọng về bản thân: thận phải. Thất vọng của những người khác về tôi: thận trái. Những thất bại riêng tư: ruột. Tôi không có ý làm ra vẻ như mình đã tạo ra cả một ngành khoa học về vấn đề này. Chuyện này đâu được suy tính cẩn thận như thế. Mọi điều diễn ra hết sức tự nhiên. Chỉ là tôi nhận ra những nguyên tắc hoạt động nhất định thôi. Khi thời gian quay ngược lại và bóng tối trùm xuống trước khi tôi sẵn sàng, tôi cảm nhận được điều này - vì những lý do tôi không giải thích nổi - ở hai cổ tay mình. Và khi tôi tỉnh dậy với các ngón tay cứng đơ thì gần như chắc chắn là tôi vừa mơ về thời thơ ấu. Cánh đồng chúng tôi thường chơi, cánh đồng mà mọi thứ đều đã được khám phá và mọi chuyện đều có thể xảy ra. (Bọn tôi chạy hăng đến mức tưởng như mình sẽ khạc ra máu: với tôi đó là âm thanh của thời thơ ấu - tiếng thở dồn dập và tiếng giày gõ xuống nền đất cứng.) Các ngón tay cứng đơ chính là giấc mơ về thời thơ ấu khi những năm tháng ấy được trả về với tôi vào cuối đời. Tôi phải đưa tay hứng dưới vòi nước nóng, hơi nước làm mờ tấm gương, bên ngoài kia đám bồ câu xôn xao. Hôm qua tôi trông thấy một gã đàn ông đá một con quý báu thay và thế là tôi cảm thấy đau ở ngay sau hai mắt. Tôi không biết gọi chỗ này là gì: nơi trước khi nước mắt xuất hiện ấy. Nỗi đau của sự quên lãng: xương sống. Nỗi đau của hồi tưởng: xương sống. Tất cả những lần tôi đột ngột nhận ra rằng cha mẹ mình đã chết, thậm chí ngay cả lúc này, tôi vẫn thấy ngạc nhiên vì mình còn tồn tại trên thế giới trong khi thế giới từng tạo ra tôi không còn tồn tại: hai đầu gối tôi, phải mất nửa ống Ben-Gay và rất nhiều nỗ lực chỉ để co gối lại thôi đấy. Để tiếp nhận những thứ đến và đi theo thời kỳ, cũng như những lần tôi thức dậy và trong giây lát cứ tưởng có người đang nằm ngủ cạnh mình: búi trĩ. Nỗi cô đơn: không có cơ quan nào tiếp nhận được cả.

Mỗi sáng lại thêm một chút.

Ngày xưa có một cậu bé. Cậu sống ở một ngôi làng bây giờ không còn tồn tại, trong một căn nhà bây giờ không còn tồn tại, bên rìa một cánh đồng bây giờ không còn tồn tại, nơi mọi thứ đều được khám phá và mọi chuyện đều có thể xảy ra. Một cái que có thể là thanh gươm. Một viên cuội có thể là kim cương. Một ngọn cây có thể thành lâu đài. Truyen8.mobi

Ngày xưa có một cậu bé sống trong căn nhà mà phía bên kia cánh đồng có một cô bé giờ không còn nữa. Cả hai đã nghĩ ra cả ngàn trò chơi. Cô là Hoàng hậu còn cậu là Vua. Trong nắng thu, mái tóc cô sáng lên như vương miện. Họ nắm thế giới trong những bàn tay nhỏ nhắn. Rồi khi trời tối, cả hai chia tay nhau khi lá vẫn còn vương trong tóc.

Ngày xưa có một cậu bé yêu một cô bé, tiếng cười của cô là câu hỏi mà cậu muốn dành cả cuộc đời để tìm câu trả lời. Khi họ lên mười, cậu ngỏ lời cầu hôn với cô. Khi mười một tuổi, cậu dành cho cô nụ hôn đầu. Lúc mười ba tuổi có một lần cả hai cãi nhau to và suốt ba tuần họ không nói với nhau câu nào. Khi mười lăm tuổi, cô cho cậu xem vết sẹo trên ngực trái. Tình yêu giữa họ là một bí mật không hé lộ với bất cứ ai. Cậu hứa với cô rằng chừng nào còn sống, cậu sẽ không yêu cô gái nào khác. Nếu em chết thì sao? cô hỏi. Khi ấy vẫn thế, cậu đáp. Vào sinh nhật thứ mười sáu của cô, cậu tặng cô một cuốn từ điển tiếng Anh rồi cả hai cùng nhau học từ. Cái gì đây? cậu hỏi và di ngón trỏ quanh mắt cá chân cô, rồi cô sẽ tra từ đó. Còn đây? cậu hỏi và hôn khuỷu tay cô. Elbow! Từ với ngữ kiểu gì thế không biết? và cậu sẽ liếm khuỷu tay cô, khiến cô cười khúc khích. Thế còn đây? cậu hỏi, chạm vào làn da mềm mại sau tai cô. Em không biết, cô nói rồi tắt đèn pin và thở dài xoay người nằm ngửa. Mười bảy tuổi, họ ân ái lần đầu tiên, trên lớp rạ trong một chuồng gia súc. Sau này - khi những chuyện họ không thể tưởng tượng nổi xảy ra - cô viết cho cậu một lá thư có đoạn: Khi nào anh mới hiểu rằng không có ngôn từ cho tất cả?

Ngày xưa có một chàng trai yêu cô gái, cha cô đã hết sức khôn ngoan dốc toàn bộ những đồng zloty mình có để đưa con gái út sang Mỹ. Ban đầu cô không chịu đi, nhưng chàng trai cũng hiểu chuyện nên đã nài nỉ cô, thề rằng có chết anh cũng kiếm chút tiền và tìm cách sang theo cô. Thế nên cô ra đi. Anh kiếm được việc ở thành phố gần nhất, làm lao công trong một bệnh viện. Ban đêm anh thức muộn để viết sách. Anh gửi cho cô một lá thư trong đó anh chép mười một chương của cuốn truyện bằng chữ nhỏ li ti. Anh thậm chí không chắc liệu lá thư có đến nơi hay không. Anh tiết kiệm tiền hết mức có thể. Một ngày kia anh bị sa thải. Không ai nói tại sao. Anh trở về nhà. Mùa hè năm 1941, các Einsatzgruppen tiến sâu hơn về phía Đông, giết hại vài trăm ngàn người Do Thái. Một ngày nắng nóng tháng Bảy, chúng tiến vào Slonim. Vào giờ đó, vô tình chàng trai đang nằm trong rừng và nghĩ về cô gái. Có thể nói rằng chính tình yêu của anh dành cho cô đã cứu sống anh. Trong những năm sau đó chàng trai trở thành người đàn ông gần như tàng hình. Bằng cách này anh đã thoát khỏi tử thần.

Ngày xưa có một người đàn ông tàng hình đã tới Mỹ. Trước đó anh đã mất ba năm rưỡi lẩn trốn, chủ yếu trong rừng nhưng còn trong cả các con hẻm, nhà kho, hầm hố. Rồi cũng qua. Xe tăng Nga tiến vào. Anh sống sáu tháng trong trại dành cho người vô gia cư. Anh chuyển lời tới người anh họ làm thợ khóa ở Mỹ. Anh nhẩm đi nhẩm lại trong đầu những từ tiếng Anh mà anh biết. Knee. Elbow. Ear. Cuối cùng hồ sơ của anh cũng được duyệt. Anh bắt tàu hỏa ra bến tàu thủy, và sau một tuần anh tới cảng New York. Một ngày mát mẻ tháng Mười một. Gập trong tay anh là mảnh giấy ghi địa chỉ của cô gái. Đêm đó anh nằm thao thức trên sàn nhà người anh họ. Lò sưởi kêu to nhưng anh vẫn thấy biết ơn vì có được hơi ấm. Buổi sáng, người anh họ phải hướng dẫn cho anh ba lần cách bắt tàu điện ngầm đến Brooklyn. Anh mua một bó hồng nhưng chúng héo mất bởi dù anh họ đã hướng dẫn tới ba lần nhưng anh vẫn bị lạc. Cuối cùng anh cũng tìm được nơi đó. Chỉ đến lúc đưa tay nhấn chuông cửa rồi trong đầu anh mới thoáng qua ý nghĩ rằng có lẽ anh nên gọi trước. Cô mở cửa. Cô choàng lên mái tóc một tấm khăn màu xanh nước biển. Anh có thể nghe âm thanh tường thuật một trận đấu bóng vọng qua tường nhà hàng xóm. Truyen8.mobi

Ngày xưa, người con gái từng là cô bé kia đã lên tàu tới Mỹ, cô nôn thốc nôn tháo suốt cả hành trình, không phải do say sóng mà do cô có mang. Khi biết điều ấy cô đã viết thư cho chàng trai. Ngày ngày cô chờ đợi thư từ anh nhưng chẳng có bức nào. Cái bụng lớn dần lên, cô cố giấu để khỏi mất việc ở nhà máy may - nơi cô đang làm việc khi ấy. Vài tuần trước khi đứa bé ra đời, cô nghe người ta kể rằng bọn Đức đang giết người Do Thái ở Ba Lan. Ở đâu? cô hỏi, nhưng không ai biết ở đâu. Cô thôi không đi làm. Cô không thể nhấc nổi mình khỏi giường. Sau một tuần, con trai của ông chủ cô tới thăm. Anh ta mua thức ăn cho cô ăn, cắm một bó hoa vào chiếc bình cạnh giường cô. Khi biết rằng cô đang có mang, anh gọi một bà đỡ. Đứa bé trai ra đời. Một hôm cô gái ngồi dậy trên giường và trông thấy con trai ông chủ đang đưa nôi cho đứa bé trong nắng. Vài tháng sau cô đồng ý lấy anh. Hai năm sau cô sinh thêm một đứa nữa.

Người đàn ông đã trở nên tàng hình ấy đứng trong phòng khách nhà cô nghe toàn bộ chuyện này. Khi ấy anh hai mươi lăm tuổi. Kể từ lần cuối cùng gặp cô, anh đã thay đổi rất nhiều, và lúc này đây một phần trong con người anh muốn cất lên tiếng cười khô lạnh. Cô đưa cho anh bức hình nhỏ chụp thằng bé, lúc đó lên năm tuổi. Bàn tay cô run rẩy. Cô nói: Hồi ấy anh ngừng viết thư. Em nghĩ là anh đã chết. Anh ngắm bức hình chụp thằng bé sẽ lớn lên có dung mạo giống anh và - dù khi ấy anh còn chưa biết - sẽ vào đại học, yêu, thất tình, trở thành một nhà văn nổi tiếng. Nó tên gì? anh hỏi. Cô nói: Em gọi nó là Isaac. Họ đứng im lặng một lúc lâu, trong lúc anh đăm đăm nhìn bức ảnh. Cuối cùng anh cũng gượng nói được ba từ: Đi với anh. Tiếng bọn trẻ hò hét vọng lên từ con phố bên dưới. Cô nhắm nghiền hai mắt. Đi với anh, anh nói và chìa một tay ra. Nước mắt chảy dài trên gương mặt cô. Anh nói với cô ba lần. Cô lắc đầu. Em không thể, cô nói. Cô nhìn xuống sàn. Xin anh, cô nói. Vì thế anh làm việc khó khăn nhất anh từng làm trong đời mình: cầm mũ và bước đi.

Và nếu như người đàn ông ngày xưa là chàng trai hứa rằng sẽ không yêu cô gái nào khác chừng nào anh còn sống đã giữ lời hứa của mình, thì đó không phải do anh ương ngạnh hay thậm chí chung thủy. Anh không thể không làm thế. Và một khi đã từng lẩn trốn ba năm rưỡi thì, che giấu tình yêu của mình với đứa con trai không hề biết rằng anh tồn tại chẳng có vẻ gì là điều không thể tưởng tượng nổi. Nhất là khi người phụ nữ duy nhất anh yêu muốn anh làm thế. Rốt cuộc, phải che giấu thêm một điều nữa cũng có nghĩa lý gì đâu, khi anh ta đã biến mất hoàn toàn?

ĐÊM TRƯỚC KHI đến làm mẫu cho lớp vẽ, tôi thấy hồi hộp và hào hứng. Tôi mở cúc áo sơ mi và cởi ra. Rồi tôi nới lưng quần và cởi ra. Áo lót. Rồi quần lót. Tôi đứng trước tấm gương ngoài sảnh, trên người chỉ còn đôi tất. Tôi có thể nghe thấy tiếng hét của bọn trẻ ở sân chơi bên kia phố. Dây bật bóng điện ở phía trên đầu nhưng tôi không bật. Tôi đứng nhìn mình trong ánh sáng còn sót lại. Tôi chưa bao giờ nghĩ mình điển trai. Truyen8.mobi

Hồi nhỏ, mẹ và các dì thường bảo rằng lớn lên tôi sẽ trở nên đẹp trai. Hồi đó tôi hiểu rõ mình chẳng phải kẻ đáng để người ta chiêm ngưỡng song vẫn tin rằng rốt cuộc thế nào mình cũng sẽ có chút đẹp đẽ. Giờ tôi không hiểu khi ấy mình nghĩ gì nữa: rằng thì đôi tai tôi - vốn chìa ra thành một góc thô kệch - sẽ thu gọn lại, và bằng cách nào đó đầu tôi sẽ phát triển hợp với đôi tai? Rằng mái tóc tôi - không khác gì bàn chải cọ toilet - theo thời gian sẽ thẳng ra và óng ả? Rằng khuôn mặt tôi, vốn chẳng hứa hẹn gì mấy - hai mí mắt nặng như đeo đá, môi mỏng - rồi đây sẽ tự phát triển thành thứ gì đó không quá tệ? Suốt nhiều năm, buổi sáng thức dậy là tôi ra soi gương liền, lòng khấp khởi hy vọng. Ngay cả khi đã quá lớn tuổi để mà nuôi hy vọng như vậy, tôi vẫn làm thế. Tôi lớn lên mà chẳng có tiến triển gì. Đúng ra thì mọi thứ càng trở nên tệ hơn khi tôi bước vào thời niên thiếu và mất đi những nét hấp dẫn dễ thương mà tất cả trẻ con đều có. Vào năm Bar Mitzvah một đợt trứng cá viếng thăm tôi, chúng lưu lại suốt bốn năm. Nhưng tôi vẫn tiếp tục hy vọng. Ngay khi trứng cá hết, đường chân tóc của tôi bắt đầu lùi lên trên, như thể muốn tách mình khỏi gương mặt đáng xấu hổ của tôi. Hai tai - hài lòng với sự chú ý mới dành cho chúng lúc này - dường như càng ra sức trở thành trung tâm thu hút chú ý hơn nữa. Hai mi mắt tôi cụp xuống - một phần sức căng cơ phải dành hỗ trợ cho nỗ lực của đôi tai - thế nên lông đ/c tôi giành lấy cuộc sống của riêng chúng, chỉ trong một thời gian ngắn đã đạt được độ dài bất kỳ ai có thể hy vọng, rồi vượt qua tất cả những hy vọng ấy và cứ thế dài ra cho đến khi bằng lông đ/c người Neanderthal. Trong nhiều năm tôi tiếp tục hy vọng rằng mọi thứ rồi sẽ khác đi, nhưng tôi chẳng bao giờ nhìn vào gương mà nhầm hình ảnh trong đó với thứ gì khác ngoài sự thật. Theo thời gian, tôi ngày càng ít nghĩ về chuyện đó. Rồi gần như chẳng còn nghĩ nữa. Ấy thế nhưng. Có thể một phần nhỏ trong tôi chưa bao giờ ngừng hy vọng - vì thế ngay cả bây giờ có những lúc tôi đứng trước gương, tay nắm thằng nhỏ đã nhăn nheo, thầm tin rằng thời điểm tôi trở nên điển trai vẫn chưa tới.

Buổi sáng tới lớp học vẽ, ngày 19 tháng Chín, tôi thức giấc trong trạng thái phấn khích. Tôi mặc quần áo, điểm tâm bằng một thanh Metamucil, sau đó vào nhà vệ sinh và hồi hộp đợi kết quả. Nửa giờ chẳng được gì, nhưng sự lạc quan của tôi chẳng hề mất. Rồi tôi cũng cố rặn được một loạt viên nho nhỏ. Tràn đầy hy vọng, tôi chờ thêm chút nữa. Rất có khả năng tôi sẽ chết khi đang ngồi trên bồn cầu, quần ngang mắt cá. Tóm lại tôi đã ngồi rất lâu ở đó, toàn bộ chuyện này nêu lên một câu hỏi khác, đó là: ai sẽ là người đầu tiên trông thấy tôi chết?

Tôi tắm rửa rồi mặc quần áo. Ngày chậm chạp trôi. Khi không chờ được nữa, tôi bắt một chuyến xe bus chạy cắt ngang thành phố. Mẩu quảng cáo trên báo được gập vuông nhét túi, vài lần tôi lấy ra để xem địa chỉ dù đã thuộc lòng. Phải mất một lúc tôi mới tìm được đúng tòa nhà. Ban đầu tôi nghĩ có sự nhầm lẫn nào đó. Tôi đi qua nó ba lần cho tới khi nhận ra rằng chắc chắn là tòa nhà đó rồi. Đó là một nhà kho cũ. Cửa trước han gỉ, được giữ cho mở ra bằng một thùng các tông. Trong khoảnh khắc, tôi để bản thân tưởng tượng rằng mình đã bị dụ tới đây, bị cướp rồi giết. Tôi tưởng tượng cảnh thân thể mình nằm trong một vũng máu trên sàn nhà.

Trời đã tối, bắt đầu có mưa. Tôi sung sướng cảm nhận gió và những hạt mưa trên mặt, thầm nghĩ rằng tôi chỉ còn rất ít thời gian sống. Tôi cứ đứng đó, không thể tiến, không thể thoái lui. Cuối cùng tôi nghe thấy tiếng cười vọng ra từ bên trong. Thấy chưa, đ/c đúng là đồ dở hơi, tôi nghĩ. Tôi với tay định cầm lấy tay nắm cửa thì đúng lúc đó cửa bật mở. Một cô gái mặc chiếc áo len quá khổ so với người bước ra. Cô xắn hai tay áo lên. Hai cánh tay cô gầy gò xanh tái. Ông cần giúp gì à? cô hỏi. Có những lỗ nhỏ xíu trên chiếc áo len. Chiếc áo dài xuống tận đầu gối, bên dưới cô gái mặc một chiếc váy. Hai ống chân cô để trần dù trời lạnh. Tôi đang tìm lớp vẽ. Có một mẩu quảng cáo đăng trên báo, có lẽ tôi đã đến sai chỗ… tôi lập cập sục túi áo khoác tìm mẩu quảng cáo. Cô gái ra hiệu, trỏ lên gác. Tầng hai, phòng đầu tiên bên phải. Nhưng một tiếng nữa mới đến giờ vào lớp. Tôi ngước nhìn tòa nhà. Tôi nói, Tôi nghĩ mình có thể lạc đường nên đến sớm. Cô đang run lên. Tôi cởi áo mưa. Này, mặc cái này vào. Cô sẽ ốm mất. Cô gái nhún vai nhưng không cử động để lấy cái áo. Tôi vẫn chìa tay ra cho đến lúc thấy rõ rằng cô sẽ không lấy nó. Truyen8.mobi

Chẳng có gì để nói nữa. Có cầu thang, vì thế tôi bước lên. Tim tôi đang đập mạnh. Tôi tính chuyện quay trở lại: đi qua cô gái, xuôi con phố đầy rác rưởi, xuyên qua thành phố, trở về căn hộ của tôi nơi vẫn còn việc để làm. Tôi là loại người ngốc nghếch gì vậy khi nghĩ rằng người ta sẽ chẳng quay đi khi tôi cởi áo và tụt quần rồi đứng trần như nhộng trước mặt họ? Khi nghĩ rằng họ sẽ quan sát đôi chân nổi đầy tĩnh mạch, hai hòn cà vặn vẹo và lông lá của tôi, và rồi gì chứ - bắt tay vào phác họa? Ấy thế nhưng. Tôi không quay lại. Tôi nắm chặt lấy tay vịn và bước lên cầu thang. Tôi có thể nghe thấy tiếng mưa rơi lên cửa sổ mái. Một ngọn đèn đầy muội đen chiếu thẳng từ trên xuống. Cuối cầu thang là một hành lang. Bên trái là căn phòng nơi một người đàn ông đang vẽ trên một tấm toan lớn. Căn phòng bên phải trống trơn. Có một khối phủ một tấm nhung đen dài, một vòng tròn ghế gấp và giá vẽ lộn xộn. Tôi bước vào và ngồi xuống chờ đợi.

Sau nửa giờ người ta bắt đầu bước vào. Một người phụ nữ hỏi tôi là ai. Tôi đến đây vì mẩu quảng cáo ấy mà, tôi nói với cô. Tôi đã gọi điện và nói chuyện với một người. Tôi thấy nhẹ cả người vì cô có vẻ hiểu. Cô chỉ cho tôi chỗ thay đồ, một góc có treo tấm rèm tạm bợ. Tôi đứng đó và người phụ nữ kéo rèm che quanh tôi. Nghe thấy tiếng chân cô bước ra xa, nhưng tôi vẫn đứng yên. Một phút trôi qua, thế rồi tôi bỏ giày. Tôi xếp hai chiếc thật ngay ngắn. Tôi tụt tất và nhét vào giày. Tôi bật cúc áo sơ mi và cởi ra; có một cái mắc nên tôi treo lên đó. Tôi nghe tiếng ghế va chạm rồi tới tiếng cười. Đột nhiên tôi chẳng hề quan tâm đến chuyện có người trông thấy mình nữa. Tôi muốn vồ lấy đôi giày và chuồn ra khỏi phòng, xuống cầu thang và ra khỏi đó. Ấy thế nhưng. Tôi cởi cúc quần. Rồi một ý nghĩ xuất hiện trong tôi: chính xác thì “khỏa thân” nghĩa là gì?

Liệu có thực sự nghĩa là không mặc đồ lót? Tôi ngẫm nghĩ. Nếu người ta muốn trông thấy tôi khi vẫn mặc đồ lót mà tôi lại bước ra với cái-bạn-biết-là-gì lủng lẳng thì sao? Tôi với tay lấy ra mẩu quảng cáo trong túi. NGƯỜI MẪU KHỎA THÂN, mẩu báo ghi thế. Đừng có ngu ngốc, tôi tự nhủ. Đây không phải những họa sĩ nghiệp dư. Chiếc quần lót đã tụt xuống đầu gối tôi thì tiếng bước chân của người phụ nữ trở lại. Ông ở đó ổn chứ? Ai đó mở một cánh cửa sổ và một chiếc xe hơi phóng vọt qua dưới làn mưa. Ổn, ổn. Chút nữa tôi sẽ ra. Tôi nhìn xuống. Có một vết bẩn bé xíu. Đám ruột của tôi. Chúng chưa bao giờ ngừng làm tôi kinh sợ. Tôi bước chân ra khỏi chiếc quần lót và cuộn nó thành cục tròn.

Tôi nghĩ: xét cho cùng cũng có thể mình tới đây để chết. Chẳng phải tôi chưa từng thấy nhà kho nào trước đó hay sao? Có thể những người này là kiểu người mà người ta gọi là thiên thần. Cô gái bên ngoài, tất nhiên rồi, làm sao tôi lại không nhận ra được chứ, cô ta rất nhợt nhạt. Tôi đứng không động đậy. Tôi bắt đầu thấy lạnh. Tôi nghĩ: vậy ra đây là cách thần chết tóm lấy đ/c. Trần truồng trong một nhà kho bỏ không. Ngày mai Bruno sẽ xuống gác, gõ cửa phòng tôi và sẽ không có ai trả lời. Tha thứ cho tớ, Bruno. Tớ vẫn luôn muốn nói lời tạm biệt với cậu. Tớ xin lỗi vì đã làm cậu thất vọng với số trang viết ít ỏi. Rồi tôi nghĩ: cuốn sách của tôi. Ai sẽ tìm thấy nó? Liệu nó có bị ném đi, cùng với những thứ đồ khác của tôi? Mặc dù nghĩ rằng tôi viết cuốn sách ấy cho bản thân, sự thật là tôi vẫn muốn có ai đó đọc nó. Truyen8.mobi

Tôi nhắm hai mắt và hít vào. Ai sẽ lau rửa thi thể tôi? Ai sẽ đọc kinh Kaddish? Tôi nghĩ: hai bàn tay của mẹ tôi. Tôi kéo rèm ra. Tôi thấy cổ họng nghẹn lại. Tôi bước về phía trước. Nheo mắt trước ánh điện, tôi đã đứng trước họ.

Tôi chưa bao giờ là người có tham vọng lớn.

Tôi rất dễ khóc.

Tôi không có đầu óc khoa học.

Tôi thường bất lực trong việc tìm từ ngữ để diễn đạt.

Trong khi những người khác cầu nguyện, tôi chỉ mấp máy môi.

Xin mời.

Người phụ nữ lúc nãy chỉ chỗ thay đồ cho tôi trỏ về phía chiếc bục phủ nhung.

Xin đứng đây.

Tôi bước qua sàn. Có khoảng mười hai người, ngồi ở ghế và cầm các tập vẽ. Cô gái mặc chiếc áo len rộng cũng ở đó.

Hãy làm bất kỳ điều gì ông thấy thoải mái.

Tôi không biết xoay mặt về phía nào. Họ xếp thành vòng tròn nên ai đó sẽ phải đối diện với hậu môn của tôi dù có xoay kiểu gì. Tôi chọn cách giữ nguyên tư thế như hiện tại. Tôi để hai cánh tay xuôi dọc theo thân và tập trung nhìn vào một điểm trên sàn. Họ nhấc bút chì lên.

Chẳng có gì xảy ra. Thay vào đó, tôi cảm nhận được lớp vải nhung sần dưới hai bàn chân, lông tay dựng lên, các ngón tay tôi như mười quả tạ nhỏ trĩu xuống. Tôi thấy nhột nhạt trước ánh nhìn của mười hai cặp mắt. Tôi ngẩng đầu lên.

Hãy cố đứng yên, người phụ nữ nói.

Tôi chằm chằm nhìn vào một kẽ nứt trên sàn bê tông. Tôi có thể nghe tiếng bút chì của họ lướt trên trang vẽ. Tôi muốn mỉm cười. Cơ thể tôi đã bắt đầu nổi loạn, hai đầu gối bắt đầu run còn các cơ lưng căng ra. Nhưng tôi chẳng quan tâm. Nếu cần, tôi sẽ đứng đây suốt cả ngày. Mười lăm rồi hai mươi phút trôi qua. Rồi người phụ nữ nói: Sao chúng ta không nghỉ một chút rồi bắt đầu lại với một tư thế khác nhỉ.

Tôi ngồi. Tôi đứng. Tôi xoay để những người chưa đối diện với hậu môn tôi giờ trông thấy nó. Các trang vẽ lật qua. Tiếp tục như thế, tôi không biết là bao lâu. Một lần tôi nghĩ mình sắp xỉu. Tôi hết tỉnh táo lại đến đờ đẫn rồi lại tỉnh táo và đờ đẫn. Hai mắt tôi nhòa lệ vì đau đớn.

Làm thế nào đó tôi đã mặc lại quần áo được. Tôi không thể tìm thấy quần lót và đã quá mệt mỏi nên thôi không tìm nữa. Tôi lê xuống cầu thang, hai tay bám chặt lan can. Người phụ nữ theo sau tôi, cô nói, Chờ chút, ông quên lấy mười lăm đô la. Tôi cầm tiền rồi khi đút tiền vào túi, tôi sờ thấy chiếc quần lót vo tròn ở đó. Cảm ơn. Tôi nói thật lòng. Tôi kiệt sức. Nhưng hạnh phúc. Truyen8.mobi

Tôi muốn nói ở một nơi nào đó rằng: tôi đã cố gắng khoan dung. Nhưng không hẳn. Có những thời điểm trong đời mình, nhiều năm trời, giận dữ đã chi phối tôi. Sự xấu xí của tôi lộ hết cả ra ngoài. Trong cay đắng cũng có chút hài lòng nhất định. Tôi cố gắng ve vãn nó. Nó đang đứng ngoài, tôi mời nó vào. Tôi quắc mắt với thế giới. Và thế giới cau có lại với tôi. Chúng tôi cùng chằm chằm nhìn nhau với vẻ ghê tởm. Trước đây tôi thường đóng sập cửa trước mặt người khác. Tôi đánh rắm khi muốn đánh rắm. Tôi tố cáo nhân viên thu ngân ăn lận vài xu trong khi tôi vẫn nắm đồng xu ấy trong tay mình. Rồi một ngày tôi nhận ra rằng tôi đang trở thành loại người đáng khinh chuyên làm những điều ti tiện ngớ ngẩn. Người ta đi qua đường để tránh mặt tôi. Tôi là hiện thân của một căn bệnh quái ác. Và nói thật lòng: tôi không thực sự giận dữ. Không còn nữa. Tôi đã bỏ lại cơn giận của mình ở đâu đó từ lâu rồi. Bỏ nó xuống một chiếc ghế trong công viên và bước đi. Ấy thế nhưng. Bao năm trôi qua tôi không biết cách sống nào khác. Bỗng một hôm tỉnh dậy tôi nói với mình: không phải đã quá muộn. Những ngày đầu tiên đến thật lạ lùng. Tôi phải tập mỉm cười trước gương. Nhưng nó đã trở lại với tôi. Như thể một gánh nặng đã được trút bỏ. Tôi buông ra và có thứ gì đó đã buông tôi ra. Vài tháng sau, tôi gặp Bruno.

Khi tôi từ lớp vẽ trở về, có một mẩu giấy của Bruno gắn trên cửa phòng tôi. Mẩu giấy viết: CẬU Ở ĐÂU? Tôi quá mệt mỏi nên không thể leo lên gác bảo với cậu. Trong nhà tối om, tôi kéo sợi dây bật bóng đèn ở sảnh. Tôi nhìn mình trong gương. Mái tóc tôi - phần còn lại của mái tóc thì đúng hơn - dựng đứng ở phía sau đầu như một ngọn sóng chồm lên. Gương mặt tôi trông nhăn nheo như một thứ đồ bị bỏ ngoài mưa.

Tôi đổ vật xuống giường, người vẫn còn mặc nguyên quần áo trừ quần lót. Quá nửa đêm thì chuông điện thoại reo. Tôi tỉnh dậy khi đang dở giấc mơ, trong mơ tôi dạy cho cậu em trai Josef đái thành hình cung. Đôi lúc tôi gặp ác mộng. Nhưng đây không phải ác mộng. Chúng tôi đang ở trong rừng, cái lạnh bập răng vào lưng cả hai. Hơi nước từ tuyết bốc lên. Josef quay về phía tôi, mỉm cười. Một đứa bé đẹp, tóc vàng, mắt xám. Màu xám, giống đại dương vào ngày không có mặt trời, hoặc giống con voi tôi đã trông thấy ở quảng trường thành phố khi tôi bằng tuổi nó. Rõ như ban ngày, đứng trong ánh mặt trời như rắc bụi. Sau đó không ai còn nhớ là đã trông thấy con voi ấy, và bởi không thể hiểu được làm thế nào một con voi lại đến được Slonim, không ai tin tôi cả. Nhưng tôi đã trông thấy nó.

Có tiếng còi hụ xa xa. Ngay khi em trai tôi mở miệng nói, giấc mơ vỡ tan và tôi thức giấc trong bóng tối phòng ngủ của mình, mưa lộp độp gõ vào cửa kính. Điện thoại tiếp tục đổ chuông. Là Bruno, chẳng nghi ngờ gì cả. Nếu không ngại rằng cậu ta sẽ gọi cảnh sát thì tôi đã lờ tịt đi rồi. Sao cậu ta không chỉ lấy gậy chống gõ vào lò sưởi như vẫn thường làm nhỉ? Gõ ba lần nghĩa là CẬU CÒN SỐNG KHÔNG?, hai lần là CÒN, một là KHÔNG. Chúng tôi chỉ làm việc đó vào ban đêm, ban ngày quá ồn ào và dù sao đi nữa thì không phải lúc nào cũng hữu dụng bởi Bruno thường ngủ thiếp đi trong khi vẫn đeo tai nghe Walkman.

Tôi tung chăn và lập cập bước sang phía bên kia phòng, va ngay vào chân bàn ăn. A LÔ? Tôi hét vào điện thoại nhưng bên kia đã ngắt máy. Tôi gác máy, vào bếp và lấy một chiếc cốc từ tủ đựng đồ xuống. Nước trong vòi kêu ùng ục rồi bắn vọt ra. Tôi uống một chút rồi nhớ ra cái cây cảnh của mình. Tôi đã có nó được gần mười năm. Nó chẳng có bao nhiêu sức sống, nhưng vẫn sống. Màu nâu nhiều hơn xanh. Có những phần đã héo khô. Nhưng nó vẫn cứ sống, luôn ngả về phía bên trái. Ngay cả khi tôi xoay sao cho phần cây từng hướng về phía mặt trời không còn xoay về phía mặt trời nữa, nó vẫn ương bướng ngả về bên trái, chọn cách chống lại nhu cầu tự nhiên để ưu tiên cho một hành động sáng tạo. Tôi đổ số nước còn lại trong cốc vào chậu. Mà sum sê có nghĩa gì nhỉ?

Một lát sau chuông điện thoại lại đổ. Được rồi, được rồi, tôi nói và nhấc ống nghe lên. Không cần phải đánh thức cả khu nhà dậy đâu. Đầu dây bên kia im lặng. Tôi nói: Bruno hả? Truyen8.mobi

Có phải ông Leopold Gursky đấy không?

Tôi đoán chắc là người ta đang cố bán được cho tôi thứ gì đó. Người ta luôn gọi điện để bán hàng. Một lần họ nói rằng nếu tôi gửi một tấm séc 99 đô la, tôi nhất định sẽ được một thẻ tín dụng, tôi nói, Đúng, chắc chắn rồi, và nếu tôi bước dưới một con bồ câu thì tôi nhất định sẽ được một đống phân.

Nhưng người đàn ông đầu dây bên kia nói rằng ông ta chẳng cố bán cho tôi thứ gì. Ông ta đã khóa cửa và không vào nổi nhà của chính mình. Ông ta đã gọi điện cho Trung tâm Thông tin để xin số điện thoại của một thợ khóa. Tôi bảo ông ta rằng tôi đã nghỉ việc. Người đàn ông ngừng lại. Có vẻ ông ta không thể tin nổi vận đen của mình. Ông ta đã gọi ba người khác nhưng chẳng ai nhấc máy. Ở đây đang mưa như trút, ông ta nói.

Ông không thể nghỉ ở chỗ nào khác qua đêm nay à? Buổi sáng thì tìm thợ khóa dễ thôi. Có vô khối ấy.

Không, ông ta nói.

Mà, ý tôi là, liệu có quá đáng không… ông ta bắt đầu rồi ngừng lại, đợi tôi lên tiếng. Tôi chẳng nói gì. OK, thôi vậy. Tôi có thể cảm thấy sự thất vọng trong giọng nói của ông ta. Xin lỗi vì đã quấy rầy ông.

Thế nhưng ông ta chẳng gác máy, tôi cũng vậy. Lòng tôi ngập tràn cảm giác có lỗi. Tôi nghĩ: mình cần ngủ làm gì nhỉ? Sẽ có thời gian mà. Ngày mai. Hoặc ngày kia.

Thôi được, thôi được, tôi nói, dù thực lòng chẳng hề muốn nói như vậy. Tôi sẽ phải lục đống đồ nghề của mình. Có lẽ tôi sẽ phải tìm như tìm kim đáy bể hay hay tìm một người Do Thái ở Ba Lan. Giữ máy chút được chứ - Tôi đang kiếm cái bút.

Ông ta cho tôi địa chỉ tận mạn trên thành phố. Chỉ khi gác máy rồi tôi mới nhớ ra rằng có thể tôi phải chờ đến lúc mọc rễ thì mới có xe bus xuất hiện vào giờ này. Trong ngăn kéo bếp tôi có danh thiếp của Dịch vụ Xe hơi Sao vàng, không phải bởi tôi đã từng gọi họ. Nhưng chẳng bao giờ ta biết trước điều gì. Tôi gọi một chiếc xe rồi bắt đầu lục tung tủ ngoài sảnh để tìm hộp đồ nghề. Thay vào đó tôi lại tìm thấy hộp đựng mấy cặp kính cũ của mình. Có trời mới biết tôi mua chỗ kính ấy ở đâu. Có lẽ ai đó đã bán chúng trên phố, cùng ít đồ sứ không cùng bộ và con búp bê không đầu. Thi thoảng tôi thử đeo một đôi vào. Một lần tôi tráng trứng trong khi đeo đôi kính dùng để đọc sách của các bà. Đĩa trứng tráng trông ra thật khổng lồ, chỉ nhìn thôi cũng khiến tim tôi cũng thắt lại vì sợ. Tôi quờ tay trong hộp và lôi ra một đôi. Mắt kính vuông, sáng màu và dày hơn một phân. Tôi đeo vào. Sàn nhà sụt xuống dưới chân và khi tôi thử bước một bước, nó bật lên. Tôi lập cập tiến về tấm gương ngoài sảnh. Tôi ghé sát vào gương để nhìn cho rõ nhưng tính toán nhầm nên cộc đầu vào tấm gương. Chuông cửa kêu. Người ta cứ thích đến khi ta chưa chuẩn bị sẵn sàng. Một phút nữa tôi sẽ xuống, tôi hét vào loa. Khi tôi gỡ cặp kính ra, hộp đồ nghề nằm ngay dưới mũi mình. Tôi đặt một bàn tay trên nắp chiếc hộp méo mó. Rồi tôi nhặt áo mưa từ sàn lên, soi gương vuốt lại mái tóc và bước ra ngoài. Mẩu giấy của Bruno vẫn còn dán ở cửa, tôi vò nát và nhét vào túi.

Một chiếc limousine đen đứng nổ máy dưới phố, mưa đổ xuống trong ánh đèn pha. Ngoài chiếc này, chỉ có vài chiếc xe không người khác đậu dọc lề đường. Tôi chuẩn bị quay vào tòa nhà thì tài xế chiếc limousine hạ kính cửa sổ xuống và gọi tên tôi. Ông ta đội mũ xếp màu tía. Tôi bước tới bên cửa sổ xe. Chắc là có nhầm lẫn, tôi nói. Tôi đã gọi một chiếc xe hơi. Truyen8.mobi

OK, ông ta nói.

Nhưng đây là chiếc limousine, tôi chỉ rõ.

OK, ông ta nhắc lại, ra hiệu cho tôi vào trong xe.

Tôi không thể trả thêm tiền.

Chiếc mũ xếp gật gật. Ông ta nói: Vào xe đi, trước khi ông ướt sạch.

Tôi chui vào trong. Có ghế bọc da, hai chai rượu bằng pha lê để dọc tủ đồ. Xe to hơn tôi tưởng tượng. Tiếng nhạc du dương êm ái từ phía trước và nhịp điệu nhẹ nhàng của cần gạt nước như mơn man tôi. Tài xế cho mũi xe ngoặt vào đường rồi hai chúng tôi chạy vào màn đêm. Ánh đèn giao thông nhòe ra trên những vũng nước. Tôi mở một chai pha lê nhưng nó rỗng không. Có một lọ kẹo bạc hà nhỏ, tôi dốc vào đầy các túi mình. Khi nhìn xuống, tôi thấy mình chưa kéo khóa quần.

Tôi ngồi thẳng người lên và hắng giọng.

Thưa quý ông quý bà, tôi sẽ cố hết sức nói sao cho ngắn gọn, tất cả các vị đã kiên nhẫn lắm rồi. Sự thật là tôi bị sốc, thật ra tôi đang tự cấu người mình. Một niềm vinh hạnh chỉ có trong mơ, một Huy chương Sao vàng cho Thành tựu Trọn đời, tôi gần như không cất nổi lời… Chuyện này có thật đấy chứ? Ấy thế nhưng. Có đấy. Tất cả những bằng chứng cho thấy thế. Trọn đời cơ đấy.

Chúng tôi đi xuyên qua thành phố. Tôi đã từng cuốc bộ qua hết các khu này, nghề nghiệp đưa tôi đi khắp cả thành phố. Thậm chí ở Brooklyn người ta cũng biết tôi, tôi đi khắp mọi nơi. Mở khóa cho người Hasids. Mở khóa cho người da đen. Thậm chí đôi lúc tôi đi bộ cho thoải mái, tôi có thể dành cả ngày Chủ nhật chỉ để cuốc bộ. Một lần cách đây nhiều năm, tôi tự đưa mình tới trước Vườn bách thảo và rồi vào trong để ngắm hoa anh đào. Tôi mua một ít bim bim Cracker Jacks và ngắm nhìn đám cá vàng béo mập lười biếng bơi trong bể. Có một đám cưới đang chụp ảnh dưới một tán cây, những bông hoa trắng khiến cả cây như thể vừa một mình trải qua trận bão tuyết. Tôi tìm tới nhà kính trồng cây nhiệt đới. Bên trong là một thế giới khác, ấm và ẩm ướt, như thể hơi thở của những người đang làm tình đã bị giữ hết cả trong đó. Tôi dùng ngón tay viết lên lớp kính: LEO GURSKY.

Chiếc limousine dừng lại. Tôi tì mặt lên cửa sổ xe. Nhà nào? Người lái xe chỉ một căn nhà liên kế. Đó là căn nhà đẹp có các bậc tam cấp dẫn lên cửa, đá chạm hình những chiếc lá. Mười bảy đô la, người lái xe nói. Tôi lần túi lấy ví tiền. Không có. Túi kia. Có mẩu giấy của Bruno, chiếc quần lót của tôi lúc tối, nhưng chẳng có ví tiền nào. Cả hai túi áo khoác, Không, Không. Chắc chắn trong lúc vội vàng tôi đã quên ví ở nhà rồi. Rồi tôi nhớ ra món tiền kiếm được từ lớp vẽ. Tôi sục tay qua đống kẹo bạc hà, mẩu giấy, chiếc quần lót rồi thấy nó. Xin lỗi, tôi nói. Thật xấu hổ làm sao. Toàn bộ tiền tôi mang theo người là mười lăm đô. Tôi phải thừa nhận rằng khi ấy tôi do dự, không muốn chia tay với những tờ tiền, từ ngữ dành cho chúng không chỉ là “cực kỳ khó kiếm” thôi đâu, mà phải là một từ gì đó khác, cay đắng ngọt ngào hơn thế. Nhưng sau khi lưỡng lự một chút, cái mũ xếp tía gật gật và chỗ tiền của tôi được chấp nhận. Truyen8.mobi

Người đàn ông đứng ở lối vào. Tất nhiên ông ta không trông đợi tôi sẽ đến bằng một chiếc limousine, thế mà tôi nhảy ra như thể Thợ khóa từ trên trời rơi xuống. Tôi thấy xấu hổ và muốn giải thích, Hãy tin tôi, tôi không bao giờ tưởng mình là một nhân vật đặc biệt đâu. Nhưng trời vẫn mưa như trút, thế nên tôi nghĩ rằng người đàn ông cần tôi hơn bất kỳ lời giải thích nào về việc tôi đã tới đó bằng cách gì. Tóc ông ta dính bết cả vì nước mưa. Ông ta cảm ơn tôi ba lần vì đã tới. Không có gì, tôi nói. Ấy thế nhưng. Suýt nữa tôi đã không tới đấy.

Cái khóa thật khó chịu. Người đàn ông đứng phía trên, cầm chiếc đèn pin của tôi. Nước mưa nhỏ giọt xuống gáy tôi. Tôi cảm thấy có bao nhiêu điều phụ thuộc vào việc tôi mở được cái khóa đó. Nhiều phút trôi qua. Tôi cố rồi thất bại. Cố và thất bại. Và rồi cuối cùng tim tôi bắt đầu đập dồn dập. Tôi xoay tay nắm rồi cánh cửa mở ra.

Chúng tôi đứng ở sảnh, nước trên người nhỏ tong tong. Ông ta bỏ giày ra, thế nên tôi cũng tháo giày mình. Ông ta cảm ơn tôi lần nữa rồi đi thay quần áo khô và gọi cho tôi một chiếc xe hơi. Tôi cố gắng khước từ, nói rằng tôi có thể bắt xe bus hay vẫy taxi, thế nhưng ông ta không nghe thấy vì tiếng mưa. Ông ta để tôi lại trong phòng khách. Tôi thơ thẩn đi vào phòng ăn, từ đó tôi trông thấy một căn phòng đầy sách. Tôi chưa từng thấy nơi nào không phải thư viện mà có nhiều sách như thế. Tôi bước vào.

Tôi cũng thích đọc sách. Tôi tới thư viện nơi tôi ở mỗi tháng một lần. Cho mình

descriptionChếtChương 2: Nỗi buồn của mẹ tôi

more_horiz
1. Tên tôi là Alma Singer

Khi tôi chào đời, mẹ đặt tên cho tôi theo tên của mọi cô gái trong một cuốn sách cha tặng cho mẹ có nhan đề Lịch sử tình yêu. Mẹ đặt tên cho em trai tôi là Emanuel Chaim, theo tên nhà sử học Do Thái Emanuel Ringelblum - người đã chôn những thùng sữa chứa các bằng chứng ở Warsaw Ghetto, theo tên của nhạc công cello Do Thái Emanuel Feuermann - một trong những tài năng âm nhạc xuất sắc nhất thế kỷ hai mươi, rồi còn theo tên cây bút Do Thái thiên tài Isaac Emmanuilovich Babel, và theo tên bác Chaim của bà - một người hay pha trò, một tay hề thực sự, làm cho mọi người cười như điên, ông chết bởi tay bọn phát xít. Nhưng em trai tôi không chịu đáp lời khi được gọi bằng cái tên ấy. Khi người ta hỏi tên nó, nó bịa ra gì đó. Nó từng nghĩ ra mười lăm hay hai chục cái tên. Trong suốt một tháng, nó tự nói về mình ở ngôi thứ ba với cái tên: ông Fruit. Vào ngày sinh nhật thứ sáu của mình, nó chạy lấy đà và nhảy ra khỏi cửa sổ tầng hai, cố gắng bay. Nó bị gãy tay và dính một vết sẹo vĩnh viễn trên trán, nhưng từ đó không ai gọi nó bằng cái tên nào khác ngoài Bird.

2. Điều tôi phủ nhận

Trước đây hai chị em tôi thường chơi một trò. Tôi trỏ một cái ghế. “ĐÂY KHÔNG PHẢI GHẾ,” tôi sẽ nói thế. Bird sẽ chỉ vào chiếc bàn. “ĐÂY KHÔNG PHẢI BÀN.” “ĐÂY KHÔNG PHẢI BỨC TƯỜNG,” tôi sẽ lên tiếng. “KIA KHÔNG PHẢI TRẦN NHÀ.” Chúng tôi sẽ tiếp tục như thế. “KHÔNG PHẢI NGOÀI TRỜI ĐANG MƯA.” “GIÀY EM KHÔNG THẮT DÂY!” Bird sẽ hét lên. Tôi sẽ chỉ vào khuỷu tay mình. “ĐÂY KHÔNG PHẢI VẾT XƯỚC.” Bird sẽ nâng đầu gối của nó lên. “ĐÂY CŨNG KHÔNG PHẢI VẾT XƯỚC!” “KIA KHÔNG PHẢI ẤM ĐUN NƯỚC!” “KHÔNG PHẢI CÁI CHÉN!” “KHÔNG PHẢI THÌA!” “KHÔNG PHẢI BÁT ĐĨA BẨN!” Chúng tôi phủ nhận tất cả phòng ốc, năm tháng, thời tiết. Một lần khi đang la hét đến đỉnh điểm, Bird hít một hơi sâu. Bằng toàn bộ hơi sức, nó rít lên: “EM! CHƯA BAO GIỜ! BUỒN! SUỐT CẢ! ĐỜI EM!” “Nhưng em chỉ mới có bảy tuổi,” tôi nói. Truyen8.mobi

3. Em trai tôi tin vào Chúa

Hồi chín tuổi rưỡi, em tôi tìm thấy một cuốn sách nhỏ màu đỏ có nhan đề Sách về những tư tưởng của người Do Thái đề tặng cha tôi - David Singer - vào dịp Bar Mitzvah. Trong cuốn sách này, những tư tưởng của người Do Thái được sắp xếp theo các tiểu mục như “Mỗi người Israel đều nắm vinh quang của cả dân tộc mình trong tay,” “Dưới thời Romanoff” và “Sự bất tử.” Chẳng lâu sau khi Bird tìm thấy cuốn sách, đi nơi nào nó cũng mang một cái mũ kippah bằng nhung đen, chẳng bận tâm chiếc mũ không vừa vặn lắm làm cho tóc sau đầu phồng lên khiến nó trông thật ngớ ngẩn. Nó còn hình thành thói quen theo đuôi ông Goldstein, ông lao công ở trường Do Thái thường hay lầm bầm nói ba thứ tiếng và có đôi bàn tay để lại bụi bẩn nhiều hơn là lau sạch. Người ta đồn đại rằng mỗi đêm ông Goldstein chỉ ngủ một giờ trong tầng hầm nhà trường, rằng ông đã từng ở trại lao động khổ sai ở Siberia, rằng ông bị yếu tim, chỉ một tiếng động mạnh cũng có thể giết ông, rằng tuyết làm ông khóc. Bird bị ông thu hút. Sau giờ tan học, Bird lẽo đẽo theo chân Goldstein trong khi ông hút bụi giữa các hàng ghế, cọ rửa các nhà vệ sinh và xóa sạch những dòng chửi bậy trên bảng. Việc của ông Goldstein là thu lại các cuốn kinh Do Thái đã rách hoặc bị xé, và một buổi chiều, dưới sự theo dõi từ trên cây của hai con quạ to như hai con quý báu thay, ông đẩy một cái xe cút kít chứa đầy các cuốn kinh ấy ra phía sau nhà nguyện, xe xóc nảy trên đất đá và rễ cây, ông đào một cái hố, đọc một câu kinh rồi chôn chúng xuống. “Không thể cứ thế ném chúng đi được,” ông nói với Bird. “Không thể nếu trên đó có tên của Chúa. Phải được chôn cất đúng cách.”

Tuần sau đó, Bird bắt đầu viết khắp các trang vở bài tập về nhà bốn chữ Hebrew cái tên mà không ai được phép nói ra và không ai được phép vứt bỏ. Vài ngày sau, tôi mở giỏ chứa quần áo bẩn và thấy cái tên ấy viết bằng bút mực trên nhãn quần lót của Bird. Nó còn dùng phấn viết đầy cửa trước nhà, vạch lăng nhăng trên tấm ảnh chụp lớp nó, trên tường nhà tắm, và trước khi chấm dứt, Bird còn dùng con dao nhíp Thụy Sĩ của tôi khắc khắp thân cây trước nhà đến độ cao tối đa nó có thể vươn tới.

Có thể vì việc ấy, hoặc có thể do thói quen đưa cánh tay lên che mặt mà ngoáy mũi như thể người ta không biết nó đang làm gì, hoặc có thể do kiểu thỉnh thoảng nó lại tạo nên những âm thanh kỳ lạ như trò chơi điện tử, dù sao thì năm đó vài đứa bạn từng chơi với Bird cũng thôi không đến chơi nữa. Truyen8.mobi

Hằng sáng Bird dậy sớm để cầu kinh ngoài trời, mặt quay về hướng Jerusalem. Khi theo dõi nó từ cửa sổ, tôi ân hận vì đã dạy nó phát âm những chữ Hebrew từ khi nó mới chỉ lên năm. Tôi buồn vì biết chuyện ấy không thể kéo dài.

4. Cha tôi qua đời khi tôi mười bảy tuổi

Những điều nhớ được, tôi chỉ nhớ từng phần. Đôi tai của ông. Nếp da nhăn trên hai khuỷu tay ông. Những câu chuyện về thời thơ ấu ở Israel mà ông thường kể tôi nghe. Ông thường ngồi ở chiếc ghế mình thích và nghe nhạc như thế nào, rồi ông thích hát ra sao. Ông nói với tôi bằng tiếng Hebrew, tôi gọi ông là Abba. Tôi đã quên hầu hết mọi điều nhưng đôi khi các từ ngữ vẫn trở lại với tôi, kum-kum, shemesh, chol, yam, etz, nishika, motek, nghĩa của chúng phai mờ đi như mặt những đồng xu cũ. Mẹ tôi là người Anh, bà đã gặp ông vào mùa hè trước khi vào học tại Oxford, khi đang làm việc ở một nông trại không xa Ashdod. Cha tôi nhiều hơn mẹ mười tuổi. Trước đó ông trong quân ngũ, rồi đi du lịch khắp vùng Nam Mỹ. Rồi ông trở lại học đại học và trở thành kỹ sư. Ông thích cắm trại ngoài trời, luôn mang theo một cái túi ngủ và chừng mươi lít nước trong thùng xe, ông có thể đánh lửa bằng một mẩu đá lửa khi buộc phải thế. Cha đón mẹ vào các tối thứ Sáu, khi những người cùng làm khác ở nông trang nằm trên các tấm vải bên dưới một màn chiếu phim khổng lồ dựng trên cỏ, vỗ về đám quý báu thay và uống rượu đến say mèm. Cha đánh xe đưa mẹ đến biển Chết - nơi họ thả mình nổi một cách kỳ lạ.

5. Biển Chết là nơi thấp nhấy trên Trái đất Truyen8.mobi

6. Chẳng có hai người nào trông ít giống nhau như cha mẹ tôi

Khi da mẹ tôi ngả màu nâu, cha tôi bật cười và nói rằng mỗi ngày mẹ lại dần giống ông hơn, đó chỉ là câu nói đùa bởi trong khi ông cao tới một mét chín với cặp mắt xanh sáng và tóc đen thì mẹ lại trắng xanh và nhỏ bé đến mức ngay cả bây giờ, ở tuổi bốn mốt, nếu nhìn bà từ phía bên kia đường, bạn sẽ nhầm bà với một cô bé. Bird nhỏ nhắn và trắng trẻo như bà, tôi thì cao như cha. Tôi cũng tóc đen, răng thưa, gầy một cách tệ hại, và tôi mười lăm tuổi.

7. Có một tấm ảnh của mẹ chưa ai từng nhìn thấy

Vào mùa thu, mẹ tôi trở lại Anh để bắt đầu học đại học. Các túi của bà đầy những cát từ nơi thấp nhất trên Trái đất. Mẹ nặng 47 cân. Có một câu chuyện thi thoảng mẹ kể, trên chuyến tàu từ ga Paddington tới Oxford, mẹ gặp một người thợ chụp ảnh hầu như mù hẳn. Ông đeo kính đen, ông bảo rằng võng mạc bị hỏng một thập kỷ trước, trong một chuyến tới Nam Cực. Bộ vest của ông được là phẳng phiu đến độ hoàn hảo, ông đặt chiếc máy ảnh trong lòng. Ông nói rằng giờ thì ông nhìn thế giới khác đi, nó không hẳn đã xấu. Ông hỏi liệu có thể chụp mẹ một kiểu. Khi ông nâng máy ảnh và ngắm qua ống kính, mẹ hỏi ông thấy gì. “Cũng vẫn thứ tôi luôn thấy,” ông nói. “Là gì?” “Một vệt mờ mờ,” ông nói. “Vậy tại sao ông làm việc này?” mẹ hỏi. “Nhỡ đâu đôi mắt tôi có thể lành lại,” người thợ ảnh nói. “Khi đó tôi sẽ biết tôi đã nhìn thấy những gì lâu nay.” Trong lòng mẹ tôi có một chiếc túi giấy màu nâu đựng bánh sandwich gan băm mà bà ngoại đã làm cho. Mẹ mời ông thợ ảnh gần như mù ăn chiếc bánh sandwich. “Cô không đói à?” ông ấy hỏi. Mẹ bảo mình có đói, nhưng chưa bao giờ mẹ nói với bà ngoại rằng mẹ ghét gan băm, rốt cuộc thành ra quá muộn, không thể nói với bà nữa vì đã không nói suốt nhiều năm rồi. Tàu chạy vào ga Oxford, mẹ tôi xuống tàu, để lại phía sau một dải cát. Tôi biết trong câu chuyện này ẩn chứa một bài học, nhưng tôi không biết đó là gì.

8. Mẹ là người ương bướng nhất tôi từng biết Truyen8.mobi

Sau năm phút, mẹ quyết định rằng mẹ ghét Oxford. Tuần đầu tiên của kỳ học, mẹ chẳng làm gì ngoài việc ngồi ở phòng mình trong một tòa nhà gió buốt lạnh xây bằng đá, nhìn mưa rơi trên đám bò ở bãi cỏ Christ Church mà thương thân. Mẹ phải đun nước pha trà bằng bếp điện. Để gặp thầy giáo, bà phải leo năm mươi sáu bậc cầu thang đá và đập cửa cho đến khi ông ta bò dậy khỏi chiếc giường xếp trong phòng làm việc - nơi ông ngủ dưới một đống giấy tờ. Hầu như ngày nào mẹ cũng viết thư cho cha, khi đó ông đã về lại Israel, bằng thứ giấy đắt tiền của Pháp, rồi khi hết thứ giấy đó, mẹ viết cho cha bằng loại giấy kẻ ô li xé ra từ vở. Trong một trong những lá thư ấy (mà tôi tìm thấy trong một hộp kẹo Cadbury cũ dưới ghế sofa trong phòng viết của mẹ), mẹ viết: Cuốn sách anh tặng đang nằm trên bàn em, hàng ngày em đều học để đọc thêm được một chút. Lý do mẹ phải học để đọc cuốn sách là bởi nó viết bằng tiếng Tây Ban Nha. Mẹ nhìn da dẻ mình nhợt nhạt trở lại trong gương. Suốt tuần thứ hai của học kỳ, mẹ mua một chiếc xe đạp cũ rồi đạp quanh ghim những tờ giấy ghi: CẦN TÌM GIA SƯ TIẾNG HEBREW, bởi mẹ học ngôn ngữ dễ dàng và bởi mẹ muốn hiểu được cha. Vài người đăng ký nhưng chỉ có một không lui bước khi mẹ phân trần rằng bà không thể trả tiền; đó là một chàng trai mặt mụn đến từ thành phố Haifa của Israel tên Nehemia, cũng là sinh viên năm thứ nhất, cũng nghèo như mẹ và cảm thấy - theo như lá thư mẹ viết cho cha - việc có một cô gái ở bên đã đủ là lý do để đồng ý gặp nhau hai lần một tuần tại phòng tự học King’s Arms, chỉ để nhận số tiền đủ để trả tiền bia. Mẹ tôi còn tự học tiếng Tây Ban Nha qua một cuốn sách mang tên Tự học tiếng Tây Ban Nha. Bà dành rất nhiều thời gian trong thư viện Bodleian đọc hàng trăm cuốn sách và chẳng kết bạn với ai. Bà yêu cầu mượn nhiều sách đến nỗi bất kỳ khi nào trông thấy mẹ tôi tới, nhân viên thủ thư cũng cố gắng trốn. Vào cuối năm đó, mẹ dẫn đầu một trong số các kỳ thi ở trường rồi bất chấp sự phản đối của cha mẹ, mẹ tôi bỏ học và đến sống cùng cha tôi ở Tel Aviv.

9. ‑Những gì diễn ra sau đó là những năm hạnh phúc nhất trong đời họ

Họ sống trong một căn nhà ngập tràn ánh nắng có hoa giấy phủ trên mái ở Ramat Gan. Cha tôi trồng một cây ô liu, một cây chanh trong vườn và đào quanh mỗi cây một rãnh nhỏ để nước chảy vào. Ban đêm họ nghe âm nhạc Mỹ qua chiếc đài sóng ngắn của ông. Khi các cửa sổ mở và gió thổi đúng hướng, họ có thể thấy hương vị của biển. Cuối cùng họ làm lễ cưới trên bãi biển ở Tel Aviv, kỳ trăng mật là hai tháng du lịch ở Nam Mỹ. Khi hai người trở về, mẹ tôi bắt đầu dịch sách sang tiếng Anh - ban đầu từ tiếng Tây Ban Nha, rồi sau đó cả từ tiếng Hebrew nữa. Năm năm như thế trôi qua, thế rồi cha tôi được mời một công việc ông không thể từ chối - làm cho một công ty Mỹ trong ngành vũ trụ. Truyen8.mobi

10. Họ chuyển tới New York và sinh tôi

Lúc mang bầu tôi, mẹ đọc cả kho sách về đủ các loại chủ đề. Mẹ không thích Mỹ nhưng cũng chẳng ghét. Hai năm rưỡi sau và hết một kho sách nữa, mẹ sinh Bird. Rồi nhà tôi chuyển tới Brooklyn.

11. ‑Tôi sáu tuổi khi cha tôi bị chẩn đoán ung thư tuyến tụy

Năm đó mẹ và tôi đang đi xe hơi cùng nhau. Mẹ bảo tôi đưa cho bà cái túi. “Con không cầm,” tôi đáp. “Có khi nó ở đằng sau,” mẹ nói. Nhưng nó không ở phía sau xe. Mẹ tấp xe vào lề đường và tìm trong xe, nhưng vẫn không thấy đâu. Mẹ ôm đầu và cố nhớ xem mình đã bỏ cái túi ở đâu. Mẹ lúc nào cũng làm mất các thứ. “Có ngày,” mẹ nói, “mẹ sẽ đánh mất cả đầu mình cũng nên.” Tôi cố gắng hình dung điều gì sẽ xảy ra nếu mẹ đánh mất đầu. Vậy nhưng rốt cuộc cha tôi mới là người mất mọi thứ: cân nặng, tóc, nhiều cơ quan nội tạng.

12. ‑Ông thích nấu nướng, cười và hát, có thể đánh lửa bằng tay, sửa đồ bị hỏng, lý giải bằng cách phòng mọi thứ lên vũ trụ, nhưng ông mất trong vòng chín tháng

13. ‑Cha tôi không phải nhà văn nổi tiếng của Nga

Ban đầu mẹ tôi giữ nguyên mọi thứ như cha tôi đã để lại. Theo Misha Shklovsky, đó là điều người ta làm với nhà của các nhà văn nổi tiếng ở Nga. Nhưng cha tôi không phải nhà văn nổi tiếng. Ông thậm chí còn chẳng phải người Nga. Rồi một hôm tôi đi học về và mọi dấu vết rõ ràng về ông đã biến mất. Các tủ đã được dọn sạch quần áo của ông, đôi giày nằm cạnh cửa không còn ở đó và ngoài phố, cạnh một chồng các túi đựng rác là chiếc ghế cũ của ông. Tôi lên phòng mình và theo dõi từ cửa sổ. Trên vỉa hè, gió cuốn những chiếc lá lăn qua cái ghế trên vỉa hè. Một ông già bước qua và ngồi vào đó. Tôi ra ngoài và lôi chiếc áo len của cha ra khỏi thùng rác. Truyen8.mobi

14. Ở tận cùng thế giới

Sau khi cha tôi mất, cậu Julian - em trai của mẹ và là một nhà nghiên cứu lịch sử nghệ thuật sống ở London - gửi cho tôi một con dao nhíp Thụy Sĩ mà cậu bảo là của cha. Nó có ba lưỡi khác nhau, một cái mở nút chai, một chiếc kéo nhỏ, một chiếc nhíp và một cái tăm. Trong bức thư gửi kèm con dao, cậu Julian nói rằng một lần cha đã cho cậu mượn con dao này khi đi cắm trại ở Pyreneees, rằng cậu đã hoàn toàn quên mất cho đến tận bây giờ, cậu nghĩ có thể tôi muốn có nó. Cháu phải cẩn thận, cậu viết, vì lưỡi dao sắc. Dao này được chế tạo nhằm giúp cháu tồn tại được ở nơi hoang dã. Cậu không biết bởi cậu với mợ Frances thuê phòng khách sạn sau khi mưa đổ xuống đầu bọn cậu ngay đêm đầu tiên, biến bọn cậu thành những kẻ ngớ ngẩn. Bố cháu là người dã ngoại giỏi hơn cậu nhiều. Một lần ở Negev, cậu thấy ông ấy hứng nước chỉ bằng một cái phễu với một miếng vải dầu. Ông ấy còn biết tên của mọi loài thực vật và biết liệu có ăn được loại đó không. Cậu biết là không an ủi được bao nhiêu, nhưng nếu cháu tới London, cậu sẽ nói cho cháu tên của tất cả những nơi ở Tây Bắc London có cà ri và liệu có thể ăn được cà ri ở đó không. Yêu cháu, cậu Julian. Tái bút: Đừng nói với mẹ cháu là cậu gửi thứ này cho cháu, nếu không bà ấy lại nổi giận với cậu mà nói rằng cháu còn quá trẻ. Tôi kiểm tra các bộ phận khác nhau, lấy móng tay gẩy từng thứ ra và dùng ngón tay để kiểm tra độ sắc của các lưỡi.

Tôi quyết định sẽ học cách tồn tại ở nơi hoang dã như cha tôi. Đó là điều có ích cần biết, phòng khi có chuyện xảy ra với mẹ, để lại tôi và Bird tự xoay xở. Tôi không nói cho mẹ biết về con dao bởi cậu Julian thực sự muốn đó là một bí mật, hơn nữa làm sao mẹ để cho tôi một mình cắm trại trong rừng nếu như mẹ thậm chí còn chẳng cho tôi đi hết nửa khu nhà?

15. ‑Bất cứ khi nào tôi đi chơi, mẹ đều muốn biết chính xác tôi sẽ đến đâu

Khi tôi về, mẹ sẽ gọi tôi vào phòng bà, ôm tôi trong vòng tay và hôn tôi chi chít. Mẹ sẽ xoa tóc tôi và nói, “Mẹ yêu con biết bao,” và khi tôi hắt hơi bà sẽ nói, “Cầu Chúa phù hộ cho con, con biết mẹ yêu con nhường nào, phải không?” và khi tôi đứng dậy lấy khăn giấy mẹ sẽ nói “Để mẹ lấy cho, mẹ yêu con nhiều lắm,” và khi tôi tìm bút để làm bài tập thì bà nói, “Dùng bút của mẹ ấy, bất kỳ thứ gì cũng dành cho con,” rồi khi tôi bị ngứa ở chân, mẹ tôi nói “Chỗ này à, để mẹ ôm con,” và khi tôi nói tôi chuẩn bị lên phòng, bà nói với theo, “Điều gì mẹ cũng có thể làm cho con mẹ yêu con b b lắm,” và tôi luôn muốn nói một điều, nhưng chưa bao giờ nói: Hãy yêu con ít hơn.

16. Mọi thứ đều được biến thành lý do

Một hôm mẹ dậy khỏi cái giường mẹ đã nằm suốt gần một năm. Cứ như lần đầu tiên chúng tôi được trông thấy mẹ không phải qua những cốc nước dần xếp quanh giường bà mà đôi lúc khi thấy buồn hào hứng, Bird cố làm chúng kêu bằng một ngón tay ướt chạy quanh rìa cốc. Mẹ làm mì ống pho mát - một trong những món ít ỏi bà biết nấu. Chúng tôi vờ như đó là món tuyệt vời nhất từng được ăn. Một buổi chiều mẹ tách tôi riêng ra. “Từ bây giờ,” mẹ nói, “mẹ sẽ đối xử với con như một người trưởng thành.” Tôi chỉ mới tám tuổi, tôi muốn bảo vậy nhưng lại không nói. Mẹ bắt đầu làm việc trở lại. Mẹ đi khắp nhà trong bộ kimono in hoa đỏ và tới bất cứ nơi nào bà cũng để lại phía sau một dải những trang giấy đã vò nát. Trước khi cha mất, mẹ là người gọn gàng. Nhưng bây giờ nếu bạn muốn tìm bà, tất cả những gì bạn phải làm là đi theo những trang giấy đầy các từ ngữ bị gạch và ở cuối dải giấy, bà sẽ ngồi đó nhìn ra cửa sổ hoặc nhìn vào một cốc nước như thể trong đó có một con cá mà chỉ bà mới có thể trông thấy. Truyen8.mobi

17. Cà rốt

Bằng tiền tiêu vặt, tôi mua một cuốn sách nhan đề Các loài hoa và cây ăn được ở Nam Mỹ. Tôi đã học được rằng ta có thể loại chất đắng ra khỏi quả sồi bằng cách đun trong nước, rằng các loài hồng dại có thể ăn được, rằng ta nên tránh bất kỳ thứ gì có mùi quả hạnh, có kiểu lá ba chẽ, hoặc có nhựa giống như sữa. Tôi cố gắng hết sức định danh được thật nhiều loài thực vật trong công viên Prospect. Vì tôi biết rằng phải lâu nữa mình mới có thể nhận biết mọi loài thực vật và bởi luôn có khả năng tôi buộc phải tồn tại ở một nơi khác ngoài Nam Mỹ, tôi còn ghi nhớ cả Phương pháp chung kiểm tra khả năng ăn được. Thật hay khi biết phương pháp này bởi một số loài cây độc - chẳng hạn độc cần - có thể trông giống một số loài cây ăn được như cà rốt và củ cải vàng. Để thực hiện cuộc kiểm tra, trước tiên ta phải không ăn uống trong tám giờ. Rồi bạn phải tách cây thành các bộ phận khác nhau - rễ, lá, thân, chồi, hoa - và chà thử một phần nhỏ của một bộ phận vào mặt trong của cổ tay. Nếu không có gì xảy ra, chạm nó vào phía trong của môi ta trong vòng ba phút, nếu sau đó không có gì xảy ra, giữ nó trên lưỡi ta trong mười lăm phút. Nếu vẫn không có gì xảy ra, ta có thể nhai nó mà không nuốt và giữ thứ đó trong miệng mười lăm phút, nếu tiếp đó không việc gì, nuốt và đợi tám giờ, nếu sau đó không có gì xảy ra, ăn một phần tư chén, và nếu không có gì xảy ra: loài cây đó có thể ăn được.

Tôi cất cuốn Các loài hoa và cây ăn được ở Nam Mỹ vào một chiếc ba lô dưới gầm giường, trong đó còn chứa con dao nhíp Thụy Sĩ của cha tôi, một cái đèn pin, một tấm vải dầu, một chiếc la bàn, một hộp đựng mấy thanh yến mạch, hai gói đậu phộng M&M, ba hộp cá ngừ, một cái mở đồ hộp, băng y tế, một bộ dụng cụ chữa rắn cắn, một bộ đồ lót, một bản đồ hệ thống tàu điện ngầm thành phố New York. Thực sự trong ba lô nên có một viên đá lửa nữa nhưng khi tôi cố mua ở cửa hàng bán đồ dùng, họ không bán cho tôi, hoặc do tôi quá trẻ hoặc do họ nghĩ tôi là kẻ mắc bệnh cuồng phóng hỏa. Trong trường hợp khẩn cấp, ta có thể đánh một tia lửa bằng con dao săn và một mẩu ngọc thạch anh, mã não hay ngọc bích, nhưng tôi không biết tìm ngọc thạch anh, mã não hay ngọc bích ở đâu. Thay vào đó, tôi lấy một ít diêm ở tiệm cà phê trên phố Hai và cho vào một túi có khóa kéo để tránh bị mưa. Truyen8.mobi

Nhân lễ Chanukah, tôi xin được nhận quà là một chiếc túi ngủ. Chiếc túi mẹ tặng tôi in các trái tim màu hồng, làm bằng vải flannel, nó có thể giúp tôi sống được năm giây trong điều kiện nhiệt độ âm, trước khi tôi chết vì giảm thân nhiệt. Tôi hỏi mẹ liệu có thể mang trả lại và mua một chiếc loại dày. “Con dự định ngủ ở đâu, Nam Cực hả?” mẹ hỏi. Tôi nghĩ, Ở đó hoặc dãy Andes ở Peru, bởi vì đó là nơi cha đã từng cắm trại. Để chuyển chủ đề, tôi nói cho mẹ về độc cần, cà rốt dại và củ cải vàng, nhưng hóa ra đó là ý tưởng tồi bởi hai mắt mẹ nhòe đi, khi tôi hỏi có chuyện gì thì bà bảo không có gì, chỉ là nó khiến mẹ nhớ tới những củ cà rốt cha từng trồng trong vườn hồi ở Ramat Gan. Tôi muốn hỏi mẹ xem ngoài một cây ô liu, một cây chanh và cà rốt, cha còn thường trồng gì nữa, nhưng tôi không muốn làm mẹ buồn hơn.

Tôi bắt đầu lập một cuốn sổ tên là Làm thế nào tồn tại được ở nơi hoang dã.

18. Mẹ tôi chưa bao giờ ngừng yêu cha

Mẹ tôi đã duy trì tình yêu với cha nguyên vẹn như mùa hè họ gặp nhau lần đầu. Để làm được điều này, mẹ quay lưng lại với cuộc sống. Thi thoảng mẹ gắng sống vài ngày chỉ bằng nước và không khí. Mẹ là sinh vật phức tạp duy nhất làm việc này, nên có một loài mới đặt theo tên mẹ mới đúng. Một lần cậu Julian giải thích cho tôi điều nhà điêu khắc, họa sĩ Alberto Giacometti nói, rằng đôi khi chỉ để vẽ một cái đầu, ta phải bỏ đi toàn bộ cơ thể. Để vẽ một chiếc lá, ta phải hy sinh cả khung cảnh. Ban đầu có vẻ giống như ta đang tự giới hạn mình, song sau một thời gian ta nhận thấy rằng sở hữu một phần nhỏ nhoi của thứ gì đó giúp ta có cơ hội nắm giữ một cảm xúc cụ thể của vũ trụ hơn khi ta vờ như đang có cả bầu trời. Truyen8.mobi

Mẹ tôi đã không chọn một chiếc lá hay cái đầu. Mẹ đã chọn cha, và để nắm giữ một cảm xúc cụ thể, bà đã hy sinh cả thế giới.

19. ‑Bức tường làm bằng từ điển ngăn mẹ tôi với thế giới mỗi năm một cao thêm

Đôi khi các trang từ điển long ra và nằm cả dưới chân mẹ, shallon, shalop, shallot, shallow, shalom, sham, shaman, shamble, như những cánh của một bông hoa khổng lồ. Khi còn nhỏ, tôi nghĩ rằng những trang giấy nằm trên sàn là những từ mẹ sẽ không bao giờ sử dụng được nữa, tôi cố gắng dán chúng trở lại chỗ cũ vì sợ rằng một ngày mẹ sẽ yên lặng.

20. ‑Kể từ khi cha mất, mẹ tôi mới hẹn hò hai lần

Cuộc hẹn hò đầu tiên cách đây năm năm (khi tôi mười tuổi) với một biên tập viên béo ị người Anh làm ở một trong số các nhà xuất bản các bản dịch của mẹ. Ở ngón út tay trái, ông ta đeo một chiếc nhẫn gắn gia huy có thể phải cũng có thể không phải của ông ta. Bất kỳ khi nào nói về bản thân, ông ta đều khua bàn tay ấy. Có một cuộc nói chuyện đã khẳng định một điều là mẹ tôi và người đàn ông tên Lyle này đã học ở Oxford cùng một thời gian. Dựa vào sự trùng hợp này, ông ta mời mẹ tôi đi chơi. Đã có nhiều người đàn ông mời mẹ ra ngoài và bà luôn nói Không. Vì lý do nào đó, lần này bà đồng ý. Vào tối thứ Bảy, mẹ xuất hiện trong phòng khách với mái tóc bới cao, quàng chiếc khăn đỏ cha tôi đã mua cho bà ở Peru. “Mẹ trông thế nào?” bà hỏi. Mẹ trông đẹp, nhưng có gì đó không phải khi mẹ quàng chiếc khăn ấy. Không có thời gian để nói gì bởi đúng lúc đó Lyle đã đến cửa trước, thở hổn hển. Ông ta thả người trên ghế sofa để hồi sức. Tôi hỏi liệu ông có biết gì về cách tồn tại ở nơi hoang dã, ông ta nói, “Có chứ.” Tôi hỏi liệu ông có biết sự khác biệt giữa độc cần và cà rốt dại, ông ta tường thuật cho tôi một cách chi tiết về những khoảnh khắc cuối cùng của một cuộc đua thuyền ở Oxford, trong đó thuyền của ông lao về phía trước để giành chiến thắng trong ba giây cuối cùng. “Chúa ơi,” tôi nói, theo cách có thể hiểu là mỉa mai. Lyle còn hồi tưởng lại những kỷ niệm tuyệt vời về chuyện đi thuyền thúng trên sông Cherwell_. Mẹ tôi bảo không biết bởi bà chưa bao giờ đi thuyền thúng trên sông Cherwell. Tôi nghĩ, Vâng, con chẳng ngạc nhiên.

Sau khi họ đi, tôi thức xem một chương trình truyền hình về loài hải âu lớn ở Nam Cực: chúng có thể di chuyển nhiều năm mà không chạm đất, ngủ giữa trời, uống nước biển, khóc ra muối, năm này sang năm khác đều trở lại để nuôi những đứa con với cùng một bạn đời. Chắc chắn tôi đã ngủ quên bởi khi tôi nghe tiếng chìa khóa của mẹ trong ổ thì đã gần một giờ sáng. Vài lọn tóc rơi xuống quanh cổ còn mascara đã nhòe ra, nhưng khi tôi hỏi chuyện ra sao thì mẹ nói rằng mẹ có biết mấy con đười ươi còn nói chuyện thú vị hơn nhiều.

Một năm sau, Bird gãy cổ tay khi cố nhảy qua ban công nhà hàng xóm, vị bác sĩ cao và gù cấp cứu cho nó muốn hẹn hò với mẹ. Có thể do cách ông ấy làm cho Bird cười được ngay cả khi cổ tay nó bị gập một góc kinh khủng, lần thứ hai kể từ khi cha mất, mẹ nói Được. Tên ông bác sĩ là Henry Lavender, tôi nghĩ đó là dấu hiệu tốt (Alma Lavender!). Khi chuông cửa reo, Bird đâm bổ xuống gác, người trần trùng trục, bỏ đĩa “That’s Amore” vào máy quay đĩa và lại bổ lên gác. Mẹ tôi chạy xuống gác, trên người không quàng chiếc khăn đỏ, nhấc kim của máy quay lên. Chiếc máy chạy đĩa rít lên một tiếng. Nó im lặng xoay lúc Henry Lavender bước vào, nhận một cốc vang trắng lạnh và kể cho chúng tôi nghe về bộ sưu tập vỏ các loài sinh vật biển của mình - phần nhiều trong số đó ông đã tự lặn lấy về trong các chuyến đi tới Philippines. Tôi tưởng tượng ra tương lai chúng tôi bên nhau, ông sẽ đưa mẹ con tôi tham gia các chuyến lặn thám hiểm, dưới làn nước biển cả bốn chúng tôi mỉm cười với nhau qua mặt nạ lặn. Sáng hôm sau tôi hỏi mẹ tình hình ra sao. Mẹ bảo ông ấy là người đàn ông tốt một cách hoàn hảo. Tôi thấy đây là điều tích cực nhưng chiều hôm đó khi Henry Lavender gọi tới thì mẹ đang ở siêu thị và không gọi lại cho ông. Hai ngày sau ông gọi thêm lần nữa. Lần này mẹ tôi đang đi dạo trong công viên. Tôi hỏi, “Mẹ sẽ không gọi lại cho ông ấy à?” và mẹ đáp, “Không.” Khi Henry Lavender gọi lần thứ ba, mẹ đang mải mê với một cuốn truyện ngắn, cứ liên tục thốt lên rằng tác giả này nên được truy tặng giải Nobel. Mẹ tôi lúc nào cũng nói về truy tặng giải Nobel. Tôi cầm chiếc máy con lẻn vào bếp. “Bác sĩ Lavender ạ?” tôi nói. Và rồi tôi nói với ông rằng tôi nghĩ mẹ tôi thực sự thích ông và mặc dù một người bình thường có lẽ sẽ cảm thấy rất vui khi nói chuyện với ông và thậm chí còn hẹn hò lần nữa nhưng, tôi đã biết mẹ mình được mười một năm rưỡi và bà chưa bao giờ làm điều gì bình thường. Truyen8.mobi

21. ‑Tôi nghĩ đó chỉ là vì mẹ chưa gặp được người phù hợp

Có vẻ như việc mẹ mặc bộ pyjama suốt ngày ở nhà dịch sách của những tác giả hầu hết đã chết chẳng giúp giải quyết được các vấn đề là mấy. Đôi khi mẹ mắc ở một câu nào đó suốt vài giờ và đi loanh quanh như một con quý báu thay mắc xương cho tới khi bà rít lên, “NGHĨ RA RỒI!” và tất tưởi chạy về bàn làm việc đào cái hố và chôn khúc xương xuống. Tôi quyết định tự lo mọi thứ. Một hôm một bác sĩ thú y tên Tucci đến nói chuyện với lớp sáu của tôi. Ông có giọng nói dễ chịu, một con vẹt xanh tên Gordo đậu trên vai ông và đăm đăm ngó ra cửa sổ vẻ đầy tâm trạng. Ông còn có một con cự đà, hai con chồn sương, một con rùa đất Bắc Mỹ, mấy con nhái bén, một con vịt gãy một cánh và một con trăn Mỹ nhiệt đới có tên Mahatma mới lột xác không lâu. Ông nuôi hai con lạc đà không bướu ở vườn sau. Sau buổi học, khi tất cả những đứa khác đang sờ mó Mahatma, tôi hỏi Tucci có vợ không; với vẻ mặt bối rối, ông nói Không, tôi hỏi xin danh thiếp của ông. Trên đó in hình một con khỉ, thế là vài đứa hết quan tâm tới con trăn và cũng quay ra đòi xin danh thiếp.

Đêm đó tôi kiếm một bức ảnh đẹp chụp mẹ mặc đồ tắm và gửi cho bác sĩ Frank Tucci, kèm theo một bản đánh máy liệt kê những phẩm chất tốt đẹp nhất của bà. Trong số này có CHỈ SỐ THÔNG MINH CAO, ĐỌC NHIỀU, HẤP DẪN (XEM ẢNH), VUI TÍNH. Bird nhìn qua danh sách và sau một chút suy nghĩ, nó gợi ý tôi thêm vào NGOAN CỐ - một từ tôi đã dạy cho nó - và cả CỨNG ĐẦU. Khi tôi nói rằng tôi không nghĩ đó là những phẩm chất tốt đẹp nhất, thậm chí tốt cũng không, Bird nói rằng đưa chúng vào bản liệt kê có thể khiến chúng nghe như thể phẩm chất tốt, và nếu sau đó bác sĩ Tucci đồng ý gặp gỡ mẹ, ông ấy sẽ không thấy thật phấn khởi. Đó có vẻ là một lập luận hợp lý nên tôi thêm vào NGOAN CỐ và CỨNG ĐẦU. Ở dưới cùng, tôi viết số điện thoại nhà tôi. Rồi tôi gửi qua đường bưu điện. Truyen8.mobi

Một tuần trôi qua, ông ấy không gọi gì. Ba ngày nữa trôi qua và tôi tự hỏi có phải đáng ra tôi không nên viết NGOAN CỐ và CỨNG ĐẦU.

Ngày hôm sau điện thoại đổ chuông và tôi nghe thấy mẹ nói, “Frank nào?” Có một khoảng im lặng dài. “Xin lỗi, gì cơ?” Một khoảng im lặng nữa. Rồi mẹ bắt đầu cười như điên. Mẹ bỏ máy và vào phòng tôi. “Chuyện gì vậy mẹ?” tôi ngây thơ hỏi. “Chuyện gì là chuyện gì hả con?” mẹ tôi hỏi thậm chí còn ngây thơ hơn. “Người vừa mới gọi điện ấy,” tôi nói. “Ồ, người đó,” mẹ nói. “Mẹ hy vọng con không phiền lòng, mẹ đã sắp xếp một cuộc hẹn kép gồm mẹ, người dụ rắn, con và Herman Cooper.” Truyen8.mobi

Herman Cooper là cơn ác mộng học lớp tám sống cùng khu chúng tôi, gọi tất cả mọi người là Chim và la ó khi thấy hai hòn cà lớn trên con quý báu thay của hàng xóm nhà tôi.

“Con thà liếm vỉa hè còn hơn,” tôi đáp.

22. ‑Năm ấy tôi mặc chiếc áo len của cha suốt bốn mươi hai ngày liên tục

Vào ngày thứ mười hai, tôi đi qua Sharon Newman và lũ bạn của nó ở hành lang. “CÓ VẤN ĐỀ GÌ VỚI CÁI ÁO LEN TỞM LỢM CỦA đ/c THẾ?” nó hỏi. Cút đi mà ăn độc cần ấy, tôi nghĩ và quyết định mặc chiếc áo len của cha tới hết đời. Tôi đã làm thế đến gần hết năm học. Đó là chiếc áo len lông alpaca_(1), đến giữa tháng Năm thì không thể chịu nổi. Mẹ tôi nghĩ rằng đó là sự đau khổ muộn mằn. Nhưng chẳng phải tôi cố gắng thể hiện gì. Tôi làm chỉ vì thích cảm giác khi làm việc ấy.

23. ‑Mẹ tôi treo một tấm ảnh cha tôi trên tường gần bàn làm việc của bà

Một hay hai lần đi qua cửa phòng bà, tôi nghe bà nói chuyện to với tấm ảnh. Mẹ tôi cô đơn ngay cả khi có chúng tôi xung quanh, song lòng tôi vẫn quặn đau khi nghĩ đến điều sẽ xảy ra với bà khi tôi lớn lên, đi xa để bắt đầu cuộc sống riêng đến cuối đời mình. Những lúc khác tôi tưởng tượng mình sẽ không bao giờ có thể ra đi.

24. Tất cả bạn bè tôi từng có đều đã đi xa Truyen8.mobi

Vào ngày sinh nhật thứ mười bốn của tôi, Bird đánh thức tôi bằng cách nhảy lên giường tôi và hát bài “Vì cô ấy là người bạn tốt.” Nó tặng tôi một thanh sô cô la Hershey đã chảy nước và một cái mũ len đỏ nó lấy từ Văn phòng Tiếp nhận và Hoàn trả Đồ thất lạc. Tôi nhặt một sợi tóc xoăn vàng hoe ra khỏi cái mũ và đội suốt từ lúc đó đến hết ngày. Mẹ tặng tôi một cái áo có mũ trùm đầu đã được kiểm tra bởi Tenzing Norgay - người vùng Himalaya đã leo lên đỉnh Everest cùng Ngài Edmund Hillary, một chiếc mũ phi công bằng da tương tự loại mũ Antoine de Saint-Exupéryđã đội, ông là một trong những người anh hùng của tôi. Hồi tôi sáu tuổi cha đã đọc cho tôi nghe Hoàng tử bé và kể Saint-Ex là vị phi công vĩ đại thế nào khi mạo hiểm tính mạng của mình để mở các tuyến bưu chính tới những vùng xa xôi. Cuối cùng ông bị một phi công Đức bắn hạ, cả ông và máy bay của mình mất tích vĩnh viễn ở biển Địa Trung Hải.

Cùng với chiếc áo khoác và mũ phi công, mẹ còn tặng tôi cuốn sách của một tác giả tên Daniel Eldridge - mẹ nói rằng ông ấy đáng được trao giải Nobel nếu người ta có trao cho các nhà cổ sinh vật học. “Ông ấy chết rồi hả mẹ?” tôi hỏi. “Sao con lại hỏi thế?” “Chẳng sao cả,” tôi đáp. Bird hỏi nhà cổ sinh vật học là gì, mẹ nói rằng nếu nó mang một cuốn sách hướng dẫn đầy đủ, minh họa chi tiết tới Bảo tàng Mỹ thuật Thành phố, xé sách thành một trăm mảnh và cho gió ở thềm bảo tàng cuốn đi, để vài tuần trôi qua, trở lại và tìm kiếm tận lực cả Đại lộ Năm và Công viên Trung tâm để có được những mảnh còn lại rồi xây dựng lại lịch sử hội họa gồm cả các trường học, các trường phái, thể loại, tên của các danh họa từ những mảnh ấy, làm thế sẽ giống một nhà cổ sinh vật học. Điểm khác biệt duy nhất là các nhà cổ sinh vật học nghiên cứu các hóa thạch để tìm ra nguồn gốc và quá trình phát triển của sự sống. Mọi đứa trẻ mười bốn tuổi đều cần biết chút gì đó về gốc gác của mình, mẹ nói. Chẳng hay gì khi sống mà chẳng biết mô tê gì về chuyện quá trình ấy bắt đầu ra sao. Rồi rất nhanh, như thể đó không phải đó là mục đích chính mẹ tặng tôi cuốn sách, mẹ nói rằng cuốn sách đó trước đây là của cha. Bird vội vàng chạy lại và sờ vào bìa sách. Truyen8.mobi

Cuốn sách có tên Những điều ta chưa biết về sự sống. Ở bìa sau có ảnh của Eldridge. Ông có đôi mắt đen với hàng mi dày, râu quai nón, đang cầm hóa thạch của một con cá trông dễ sợ. Bên dưới chú thích ông là giáo sư của Đại học Columbia. Đêm đó tôi bắt đầu đọc cuốn sách. Tôi nghĩ có thể cha đã ghi chú một chút ở lề sách nhưng không phải thế. Dấu hiệu duy nhất của ông là cái tên ở mặt trong bìa sách. Cuốn sách kể chuyện Eldridge và một số nhà khoa học đã xuống đáy đại dương bằng một chiếc tàu lặn và phát hiện ra các miệng thủy nhiệt ở những nơi các mảng vỏ kiến tạo gặp nhau là nơi phun ra những luồng khí giàu khoáng chất nóng tới 700 độ. Trước đó các nhà khoa học vẫn nghĩ rằng đáy biển là nơi hoang vu có rất ít hoặc không có sự sống. Nhưng thứ mà Eldridge và các đồng nghiệp của ông quan sát được dưới ánh đèn của chiếc tàu lặn là hàng trăm sinh vật mà con người chưa bao giờ nhìn thấy, cả một hệ sinh thái mà người ta nhận ra rằng đã có từ rất, rất lâu. Họ gọi đó là sinh quyển bóng tối. Dưới đó có rất nhiều miệng thủy nhiệt và chẳng mấy chốc họ biết được rằng có những vi sinh vật sống trên lớp đá quanh các miệng thủy nhiệt ấy ở nhiệt độ đủ làm chì tan chảy. Khi mang một số sinh vật ấy lên mặt nước, họ ngửi thấy mùi trứng thối. Họ nhận ra rằng các sinh vật kỳ lạ này sống nhờ vào hydro-sulphide phát ra từ các miệng thủy nhiệt rồi thải ra lưu huỳnh giống như kiểu thực vật trên mặt đất tạo ra oxy. Theo cuốn sách của tiến sĩ Eldridge, những gì họ đã phát hiện ra không kém gì một ô cửa trên lộ đồ những phản ứng hóa học đã dẫn đến bình minh của tiến hóa cách đây vài tỷ năm.

Tư tưởng về tiến hóa thật hay mà cũng thật buồn. Kể từ khi có sự sống đầu tiên trên trái đất, đã có từ năm đến năm mươi tỷ loài, trong đó chỉ còn năm tới năm mươi triệu loài còn tồn tại đến giờ. Như vậy là chín mươi chín phần trăm tổng số loài từng tồn tại trên trái đất đã tuyệt chủng.

25. Em trai tôi - Messiah

Khi tôi đang đọc sách, Bird vào phòng tôi và leo lên giường. Nó nhỏ bé so với một đứa mười một tuổi rưỡi. Nó tì cái chân nhỏ và lạnh vào chân tôi. “Kể cho em nghe chút gì về **đi,” nó thì thầm. “Em quên cắt móng chân rồi,” tôi nói. Nó day hai mắt cá vào bắp chân tôi. “Kể đi nào!” nó van vỉ. Tôi cố gắng nghĩ, và bởi vì tôi không thể nhớ nổi điều gì mà tôi chưa kể cho nó nghe tới vài trăm lần, tôi bịa ra một điều. “Bố thích leo vách đá,” tôi nói. “Bố là người leo giỏi. Một lần bố leo lên một tảng đá nằm cao phải hơn sáu mươi mét. Chị nghĩ là một nơi nào đó ở Negev.” Bird phả hơi thở nóng của nó vào cổ tôi. “Masada hả?” nó hỏi. “Cũng có thể,” tôi đáp. “Bố rất thích thế. Đó là một sở thích,” tôi nói. “Bố có thích khiêu vũ không?” Bird hỏi. Tôi chẳng biết bố có thích khiêu vũ hay không nhưng vẫn nói, “Bố thích khiêu vũ. Bố còn nhảy được điệu tango nữa kia. **đã học điệu ấy ở Buenos Aires. Bố với mẹ khiêu vũ suốt. Bố dịch bàn uống cà phê vào sát tường và dùng cả phòng. Bố thường nâng bổng mẹ lên, hạ mẹ thấp xuống rồi hát vào tai mẹ.” “Có em ở đó không?” “Chắc chắn có chứ,” tôi nói. “Bố thường ném em lên không rồi bắt lấy.” “Làm thế nào bố biết được là sẽ không đánh rơi em?” “Chỉ là bố biết thế thôi.” “Bố gọi em là gì?” “Nhiều lắm.” “Anh bạn, Cậu nhỏ, Cu.” Vừa tiếp tục tôi vừa bịa ra. Bird trông có vẻ không tin. “Người Juda dòng Maccabee,” tôi nói. “Thuần Maccabee. Mac.” “Bố hay gọi em là gì nhất?” “Chị đoán là Emmanuel.” Tôi giả vờ ngẫm nghĩ. “Không, đợi tí. Là Manny. Bố hay gọi em là Manny.” “Manny,” Bird nói và gọi thử. Nó cuộn mình lại vào sát tôi hơn. “Em muốn nói với chị một bí mật,” nó thì thầm. “Vì hôm nay là sinh nhật chị.” “Gì vậy?” “Trước tiên chị phải hứa tin em đã.” “OK.” “Hãy nói ‘Chị hứa’ đi.” “Chị hứa.” Bird hít một hơi sâu. “Em nghĩ có lẽ mình là một thiên sứ.” “Một gì?” “Một trong số các thiên sứ,” nó thì thào. “Ba mươi sáu nhân vật thần thánh.” “Ba mươi sáu người thần thánh gì cơ?” “Những người mà sự tồn tại của thế giới phụ thuộc vào họ ấy.” “Ồ, những người đó hả. Đừng có…” “Chị đã hứa rồi,” Bird nói. Tôi không nói gì. “Lúc nào cũng có ba mươi sáu,” nó thì thầm. “Không, chẳng ai biết họ là ai. Chỉ có những lời cầu nguyện của họ đến được tai Chúa. Đó là điều ông Goldstein bảo.” “Và em nghĩ em là một trong số họ,” tôi nói. “Ông Goldstein còn nói gì nữa?” “Ông ấy bảo là khi Messiah đến, ông ấy sẽ trở thành một trong các thiên sứ. Ở mọi thế hệ đều có một người có khả năng trở thành Messiah. Có thể ông ấy đủ khả năng hoặc có thể ông ấy không đủ. Có thể thế giới đã sẵn sàng cho ông ấy hoặc có thể là không. Thế thôi.” Tôi nằm trong bóng tối, cố gắng nghĩ đến điều gì phù hợp để nói ra. Lòng tôi bắt đầu thắt lại. Truyen8.mobi

26. Tình hình lên đến mức nghiêm trọng

Thứ Bảy tuần sau đó tôi bỏ cuốn Những điều ta chưa biết về sự sống vào ba lô và bắt tàu điện ngầm lên Đại học Columbia. Tôi lang thang trong khuôn viên của trường mất bốn mươi lăm phút cho tới khi tìm thấy văn phòng của Eldridge trong tòa nhà dành cho môn Khoa học Trái đất. Khi tôi tới đó, thư ký đang ăn đồ mua về bảo là tiến sĩ Eldridge không có ở văn phòng. Tôi nói sẽ chờ, ông thư ký bảo có lẽ tôi nên đến vào lúc khác bởi tiến sĩ Eldridge sẽ vắng mặt vài giờ. Tôi nói với ông ta là tôi không nề gì. Ông ta quay lại với túi đồ ăn của mình. Trong lúc chờ đợi, tôi đọc một số của tạp chí Hóa thạch. Rồi tôi hỏi viên thư ký - đang cười to vì thứ gì đó trên máy tính của ông ta - liệu ông ấy có nghĩ rằng tiến sĩ Eldridge sẽ sớm quay lại không. Ông ta ngừng cười và ngó tôi như thể tôi vừa làm hỏng mất khoảnh khắc quan trọng nhất đời ông ta vậy. Tôi trở lại chỗ ngồi của mình và đọc một số của tạp chí Nhà cổ sinh vật ngày nay.

Thấy đói nên tôi đi dọc hành lang và mua một gói bánh quy kẹp kem Devil Dogs từ máy bán hàng tự động. Rồi tôi ngủ quên mất. Khi tôi tỉnh dậy, viên thư ký đã đi khỏi. Cửa phòng Eldridge đang mở, các đèn bật sáng. Bên trong, một ông già tóc bạc đang đứng cạnh một tủ đựng hồ sơ phía dưới một tấm áp phích ghi: TỪ ĐÓ KHÔNG CÓ NGUỒN GỐC, SINH RA MỘT CÁCH TỰ PHÁT, XUẤT HIỆN NHỮNG PHẦN TỬ ĐẦU TIÊN CỦA TRÁI ĐẤT CÓ SỰ SỐNG - ERASMUS DARWIN.

“Mà nói thật, tôi đã không hề nghĩ về lựa chọn đó,” ông già nói vào điện thoại. “Tôi ngờ rằng ông ta thậm chí còn không muốn nộp đơn. Dù sao đi nữa tôi nghĩ chúng tôi đã có đúng người mình cần. Tôi sẽ phải nói chuyện với khoa, nhưng chúng ta hãy cứ nói rằng mọi thứ đang có vẻ ổn.” Ông trông thấy tôi đứng ở cửa và ra hiệu rằng chút nữa sẽ xong việc. Tôi đang chuẩn bị nói là Vâng, cháu đang đợi tiến sĩ Eldridge, thì ông xoay lưng lại và ngó ra ngoài cửa sổ. “Tốt, tôi mừng khi được nghe thế. Tôi phải cúp máy đây. Vâng, được rồi. Chúc may mắn. Tạm biệt.” Ông quay về phía tôi. “Rất xin lỗi,” ông nói. “Tôi có thể giúp gì được cháu?” Tôi gãi cánh tay và nhận thấy ghét ở móng tay mình. “Ông không phải tiến sĩ Eldridge đúng không ạ?” tôi hỏi. “Tôi đây,” ông nói. Tim tôi thắt lại. Hẳn là bức ảnh trong cuốn sách phải chụp được ba mươi năm rồi. Tôi chẳng phải nghĩ lâu mới biết rằng ông không thể giúp được gì việc tôi tới nhờ, bởi ngay cả khi ông xứng đáng được nhận giải Nobel do là nhà cổ sinh vật học vĩ đại nhất còn sống, ông cũng xứng đáng nhận một giải là người già nhất nữa. Truyen8.mobi

Tôi không biết nói gì. “Cháu đã đọc cuốn sách của ông,” cuối cùng tôi cũng gắng thốt được thành lời, “và cháu đang nghĩ đến chuyện trở thành một nhà cổ sinh vật học.” Ông nói, “Này, đừng có vẻ thất vọng như thế.”

27. ‑Một việc tôi sẽ không bao giờ làm khi lớn lên

Đó là yêu, bỏ học đại học, học cách sống bằng nước và không khí, có một loài đặt theo tên mình, hủy hoại cuộc sống của mình. Khi tôi còn nhỏ, mẹ thường nhìn tôi bằng một ánh mắt kỳ lạ rồi nói, “Một ngày nào đó con sẽ yêu.” Tôi muốn nói nhưng lại chưa bao giờ nói: Không, một triệu năm nữa cũng không.

Đứa con trai duy nhất tôi từng hôn là Misha Shklovsky. Anh họ nó dạy cho nó hồi ở Nga - nơi nó sống trước khi chuyển tới Brooklyn, rồi nó dạy cho tôi. “Không dùng lưỡi mấy,” là tất cả những gì nó nói.

28. ‑Có hàng trăm thứ có thể làm thay đổi cuộc đời bạn; Thư từ là một

Năm tháng trời trôi qua và tôi gần như đã từ bỏ việc tìm ai đó làm cho mẹ hạnh phúc. Rồi chuyện này xảy ra: vào giữa tháng Hai năm ngoái, một lá thư xuất hiện, được đánh máy trên giấy thư màu xanh chuyển qua đường máy bay, dấu bưu điện gửi từ Venice, rồi được nhà xuất bản mà mẹ cộng tác chuyển tiếp. Bird trông thấy thư trước và mang đến cho mẹ hỏi liệu nó được lấy những con tem hay không. Lúc ấy chúng tôi đang ở cả trong bếp. Mẹ mở thư và đọc khi vẫn đang đứng. Rồi mẹ đọc lần thứ hai và ngồi xuống. “Chuyện này lạ thật,” mẹ nói. “Gì cơ mẹ?” tôi hỏi. “Ai đó viết thư cho mẹ về cuốn Lịch sử tình yêu. Cuốn sách mà bố mẹ lấy tên nhân vật đặt cho con ấy.” Mẹ đọc to lá thư cho chúng tôi nghe.

Thưa bà Singer,

Tôi vừa mới đọc xong bản bà dịch những bài thơ của Nicanor Parra, người mà như bà nói, “đeo trên ve áo một nhà du hành vụ trụ Nga nho nhỏ và mang trong túi những bức thư của một người phụ nữ đã bỏ ông để đến với một người khác.” Nó đang nằm ở đây, bên cạnh tôi, trên chiếc bàn trong phòng tôi ở một khách sạn nhỏ nhìn ra Grand Canal_(1). Tôi không biết nói gì về nó trừ một điều là nó đã làm cho tôi xúc động theo đúng cách người ta hy vọng khi bắt đầu đọc một cuốn sách. Ý tôi là theo cách tôi hầu như không thể biểu đạt nổi, nó đã làm thay đổi con người tôi. Nhưng tôi sẽ không nói về chuyện ấy. Sự thực là tôi viết thư không phải để cảm ơn bà mà để làm một việc có lẽ nghe như một đề nghị kỳ quặc. Trong lời giới thiệu của bà, bà đã nhắc tới một nhà văn quá cố ít tên tuổi Zvi Litvinoff, người đã trốn khỏi Ba Lan sang Chile năm 1941 và là người có tác phẩm duy nhất được xuất bản viết bằng tiếng Tây Ban Nha có nhan đề Lịch sử tình yêu. Câu hỏi của tôi là: liệu bà có thể xem xét việc dịch tác phẩm đó? Hoàn toàn bởi vì mục đích sử dụng mang tính cá nhân của tôi thôi; tôi không có ý định xuất bản nó, các quyền liên quan sẽ thuộc về bà nếu bà muốn làm như vậy. Tôi sẵn lòng trả mức giá mà bà cho là hợp lý đối với công việc như vậy. Tôi luôn thấy những vấn đề này khó xử. Chúng ta có thể thống nhất 100.000 đô la không? Chừng đó. Nếu bà cho rằng mức đó quá thấp, xin hãy cho tôi biết.

Tôi đang tưởng tượng phản ứng của bà khi đọc lá thư này, lá thư mà tính đến giờ đã mất khoảng một hay hai tuần nằm ở vùng vịnh này, rồi trải qua một tháng chao đảo trong hệ thống bưu chính của Ý trước khi băng ngang Đại Tây Dương và cuối cùng được chuyển cho Bưu chính Mỹ - cơ quan sẽ đưa nó vào một chiếc bao tải trên chiếc xe được một nhân viên bưu điện đẩy đi, người này sẽ lê bước trong mưa hay tuyết để nhét nó qua khe nhận thư nhà bà, nơi nó sẽ rơi xuống sàn và đợi bà tìm thấy. Và sau khi đã tưởng tượng ra, tôi chuẩn bị tinh thần cho phương án xấu nhất, trong đó bà sẽ coi tôi là một kẻ điên rồ. Song có thể không nhất thiết phải như thế. Có thể nếu tôi nói cho bà biết rằng đã rất lâu rồi, một lần khi tôi đang mơ màng thì có một người đọc cho tôi nghe vài trang của cuốn sách mang tên Lịch sử tình yêu, và rằng trong toàn bộ những năm sau đó tôi không quên nổi đêm ấy, bà sẽ hiểu. Truyen8.mobi

Tôi sẽ cảm kích nếu bà có thể gửi cho tôi thư trả lời tới đây, theo địa chỉ ở trên. Trong trường hợp lá thư tới khi tôi đã đi khỏi, người của khách sạn sẽ chuyển tiếp cho tôi.

Rất mong nhận được thư của bà,

Jacob Marcus

Tôi nghĩ, Chúa ơi! Tôi hầu như không tin nổi vận may của chúng tôi và nghĩ đến chuyện tự viết thư cho Jacob Marcus với cái cớ là để giải thích chính Saint-Exupéry là người đã thiết lập khu vực phía Nam cuối cùng của tuyến bưu chính tới Nam Mỹ vào năm 1929, xuyên tới tận mũi lục địa. Jacob Marcus có vẻ quan tâm đến chuyện thư từ và dù sao đi nữa, một lần mẹ tôi đã bảo rằng một phần nhờ sự dũng cảm của Saint-Ex mà Zvi Litvinoff - tác giả của Lịch sử tình yêu - có thể nhận được những lá thư cuối cùng từ gia đình và bạn bè ở Ba Lan. Ở cuối thư tôi sẽ thêm điều gì đó về chuyện mẹ tôi vẫn còn một mình. Nhưng tôi nghĩ lại và đổi ý - phòng trường hợp bằng cách nào đó bà phát hiện ra, làm hỏng hết thứ đã bắt đầu một cách suôn sẻ - và không can thiệp gì vào chuyện này. Một trăm ngàn đô la là món tiền lớn. Nhưng tôi biết rằng giả sử Jacob Marcus có đề nghị trả ít đến thế nào đi chăng nữa thì mẹ tôi vẫn sẽ đồng ý làm việc đó.

29. ‑Mẹ thường đọc Lịch sử tình yêu cho tôi nghe

“Người phụ nữ đầu tiên có thể là Eve nhưng cô gái đầu tiên sẽ luôn là Alma,” mẹ sẽ nói như vậy, cuốn sách bằng tiếng Tây Ban Nha để trong lòng bà còn tôi nằm ở giường. Đó là khi tôi mới bốn hay năm tuổi, trước khi cha bị ốm và cuốn sách bị cất lên giá sách. “Có lẽ lần đầu tiên ta trông thấy cô, ta mười tuổi. Cô đang đứng trong nắng, gãi hai chân. Hoặc là dùng một cái que vẽ chữ lên nền đất. Tóc cô đang bị kéo. Hoặc cô đang kéo tóc ai đó. Một phần ta bị hút về phía cô và một phần chống lại - muốn bỏ chạy bằng chiếc xe đạp của mình, sút một viên đá, giữ nguyên vẻ đơn giản. Trong cùng một hơi thở, ta cảm nhận thấy cả sức mạnh của một người đàn ông và sự thương hại dành cho chính bản thân khiến ta cảm thấy nhỏ bé và bị tổn thương. Một phần trong ta nghĩ: Xin đừng nhìn tôi. Nếu bạn không nhìn, tôi có thể vẫn quay đi được. Và một phần ta lại nghĩ: Hãy nhìn tôi.

“Nếu ta nhớ lần đầu tiên trông thấy Alma, ta cũng sẽ nhớ lần cuối cùng. Cô đang lắc đầu. Hoặc đang dần mất hút về phía bên kia một cánh đồng. Hoặc qua cửa sổ nhà ta. Trở lại đi, Alma! ta hét lên. Quay lại! Quay lại!

“Nhưng cô ấy đã không trở lại.

“Và dù cho từ đó ta đã lớn lên, ta vẫn cảm thấy mình ngây ngô như một đứa trẻ. Và dù cho niềm kiêu hãnh của ta đã vỡ vụn, ta vẫn cảm thấy tình yêu của mình dành cho cô thật lớn lao. Cô đã ra đi, tất cả những gì còn lại là khoảng không gian nơi ta đã lớn lên bên cô, giống như một cái cây lớn lên bên hàng rào.

“Trong một thời gian dài, nơi ấy vẫn trống trải. Có lẽ là nhiều năm. Và khi rốt cuộc nó được lấp đầy, ta biết được rằng nếu không có Alma, ta không thể yêu một người phụ nữ khác. Nếu không có cô thì đã chẳng bao giờ có khoảng trống nào hay nhu cầu lấp đầy nó.

“Tất nhiên cũng có những trường hợp khác, cậu bé ta nói trên không chịu ngừng hét gọi Alma. Làm một cuộc tuyệt thực. Cầu xin. Trút tình yêu của mình vào đầy một cuốn sách. Tiếp tục cho tới lúc cô không còn lựa chọn nào khác ngoài quay lại. Mỗi lần cô cố gắng ra đi, biết rằng đó là điều phải làm, cậu bé đều ngăn cản cô, van xin như một kẻ ngốc nghếch. Và vì thế cho dù cô hay bỏ đi nhiều lần đến mức nào, đi xa bao nhiêu, cô luôn trở lại, xuất hiện sau lưng cậu mà không hề gây chút tiếng động nào, che mắt cậu bằng hai bàn tay mình, bắt bất kỳ kẻ nào từng có thể theo bước cô làm chiến lợi phẩm dành cho cậu.” Truyen8.mobi

30. ‑Bưu chính Ý thật chậm chạp. Nhiều thứ bị thất lạc và những cuộc đời bị hủy hoại vĩnh viễn

Chắn chắn phải mất thêm vài tuần nữa thư trả lời của mẹ tôi mới đến được Venice, nhiều khả năng đến lúc đó Jacob Marcus đã ra đi, để lại yêu cầu chuyển tiếp thư của mình. Ban đầu tôi hình dung ông là một người rất cao và gầy, mắc chứng ho kinh niên, nói được vài từ Ý ông biết với âm điệu tệ hại, là kiểu người buồn bã không bao giờ chịu ngồi nhà dù có ở bất cứ đâu. Bird tưởng tượng ông như John Travolta trên một chiếc Lamborghini với một va li đầy tiền. Nếu như có tưởng tượng về ông, mẹ cũng chẳng nói.

Nhưng lá thư thứ hai của ông xuất hiện vào cuối tháng Ba, sáu tuần sau lá thư thứ nhất, đóng dấu bưu điện New York và được viết bằng tay ở mặt sau một tấm bưu thiếp đen trắng cũ in hình khí cầu. Tưởng tượng của tôi về ông phát triển thêm. Thay vì một cơn ho, tôi thấy ở ông một chiếc ba-toong ông đã dùng từ khi bị tai nạn xe hơi hồi hai mươi mấy tuổi và tôi quyết định rằng nỗi buồn của ông là vì cha mẹ ông đã để ông cô đơn quá thể khi còn là trẻ con, sau đó họ qua đời, để lại cho ông toàn bộ tiền bạc của mình. Ở mặt sau tấm bưu thiếp, ông viết:

Thưa bà Singer,

Tôi quá vui khi nhận được thư của bà và được biết rằng bà sẽ có thể bắt tay vào việc dịch. Xin hãy gửi thông tin chi tiết về tài khoản ngân hàng của bà, tôi sẽ gửi ngay lập tức 25.000 đô la đầu tiên. Bà có đồng ý là khi dịch, bà sẽ gửi mỗi lần một phần tư cuốn sách không? Tôi hy vọng bà sẽ lượng thứ cho sự thiếu kiên nhẫn của tôi và coi đó là kết quả của sự mong mỏi và hào hứng vì cuối cùng cũng được đọc tác phẩm của Litvinoff và của bà. Ngoài ra còn vì tôi rất thích nhận thư và muốn kéo dài càng lâu càng tốt việc đọc một cuốn sách mà tôi nghĩ sẽ làm mình rung động sâu sắc.

Kính thư,

J.M.

31. ‑Mỗi người Israel đều nắm vinh quang của cả dân tộc họ trong tay mình

Tiền chuyển đến một tuần sau đó. Để ăn mừng, mẹ đưa chúng tôi đi xem một bộ phim của Pháp có phụ đề, nói về hai cô gái trốn khỏi nhà. Trừ ba người khác nữa, rạp chiếu phim vắng tanh. Một trong ba người đó là nhân viên dẫn chỗ. Trong phần giới thiệu, Bird ăn hết chỗ kẹo Mild Dud, chạy lên chạy xuống các lối đi giữa những hàng ghế trong cơn say đường cho tới khi ngủ lăn quay ở hàng ghế đầu. Truyen8.mobi

Không lâu sau bữa ấy, trong tuần đầu tiên của tháng Tư, nó leo tận lên mái trường học Do Thái, bị ngã và bong gân cổ tay. Để tự an ủi mình, nó làm một chiếc bàn nhỏ phía ngoài nhà và vẽ một tấm biển đề NƯỚC CHANH TƯƠI 50 XU LÀM ƠN TỰ RÓT (BONG GÂN CỔ TAY). Dù nắng hay mưa nó cũng ra đó cùng bình đựng nước chanh và một chiếc hộp giày để đựng tiền. Khi khách hàng ở khu phố chúng tôi đã ngán ngẩm, nó chuyển đến nơi khác cách vài khu và dựng bàn ở phía trước một bãi đậu xe bỏ không. Nó bắt đầu dành ngày càng nhiều thời gian ở đó. Khi kinh doanh ế ẩm, nó bỏ mặc cái bàn và đi lang thang chơi trong bãi đậu xe. Mỗi lần tôi đi qua đều thấy nó đã làm một việc gì đó để nơi ấy khá hơn: kéo cái rào han gỉ sang một bên, cắt bớt cỏ dại, đổ đầy rác vào thùng rác. Khi trời tối, nó trở về nhà với hai ống chân đầy vết xước, chiếc mũ kippah lệch trên đầu. “Đó đúng là chỗ thật lộn xộn,” nó bảo. Nhưng khi tôi hỏi nó đang có kế hoạch làm gì ở đó, Bird chỉ nhún vai. “Một nơi chốn thuộc về bất kỳ ai biết sử dụng nó,” nó nói với tôi. “Cảm ơn thiên sứ nhé. Ông Goldstein bảo em thế hả?” “Không.” “Vậy em sử dụng nơi ấy vào việc lớn nào thế?” tôi gọi với sau lưng nó. Thay vì trả lời tôi, Bird bước tới khung cửa, vươn người chạm vào một thứ, hôn bàn tay mình rồi đi lên gác. Đó là một miếng bùa bằng nhựa; nó đã nhét lên mọi khung cửa trong nhà. Thậm chí còn có một cái phía trên cửa nhà tắm. Truyen8.mobi

Ngày hôm sau tôi tìm thấy cuốn thứ ba của bộ Làm thế nào tồn tại được ở nơi hoang dã trong phòng Bird. Nó đã dùng bút mực viết nghệch ngoạc tên Chúa ở khắp phía trên mọi trang sổ. “đ/c ĐÃ LÀM GÌ VỚI CUỐN SỔ CỦA tôi THẾ?” tôi hét lên. Nó im lặng. “đ/c LÀM NÓ HỎNG HẾT RỒI.” “Không, em không làm hỏng. Em đã cẩn thận…” “Cẩn thận? Cẩn thận? Ai nói là đ/c thậm chí được phép chạm vào nó? Đã bao giờ nghe thấy từ RIÊNG TƯ chưa?” Bird chằm chằm nhìn cuốn sổ trong tay tôi. “Khi nào đ/c mới bắt đầu hành động như một người bình thường?” “Có chuyện gì dưới đó thế?” mẹ từ trên gác hỏi vọng xuống. “Không có gì!” cả hai chúng tôi đồng thanh. Sau một

descriptionChếtChương 3: Hãy tha thứ cho tôi

more_horiz
Hầu như mọi điều biết được về Zvi Litvinoff đều xuất phát từ lời giới thiệu vợ ông viết trong cuốn Lịch sử tình yêu tái bản vài năm sau khi ông mất. Giọng điệu trong lời giới thiệu của bà - nhẹ nhàng và khiêm nhường - nhuốm đầy màu sắc sự hy sinh của một người đã dành trọn đời mình cho sự nghiệp nghệ thuật của một người khác. Nó bắt đầu thế này: Tôi gặp Zvi tại Valparaíso vào mùa thu năm 1951, khi đó tôi vừa bước sang tuổi hai mươi. Trước đó tôi thường trông thấy ông ở các quán cà phê dọc con sông nơi tôi thường tụ tập với bạn bè. Ông mặc áo khoác ngay cả trong những tháng ấm áp nhất và luôn đăm đăm nhìn ra cảnh bên ngoài. Ông nhiều hơn tôi gần mười hai tuổi, song có điều gì đó ở ông khiến tôi thấy thu hút. Tôi biết ông là người di cư bởi tôi đã nghe giọng nói của ông vài lần, khi ai đó ông biết - cũng từ thế giới khác đó - dừng lại một chút bên bàn ông. Hồi tôi còn rất nhỏ, cha mẹ tôi đã di cư từ Kraków tới Chile, thế nên với tôi ở ông có gì đó thật quen thuộc và cảm động. Tôi để mặc ly cà phê của mình, ngắm nhìn ông đọc hết tờ báo. Bạn bè cười tôi, gọi ông là un viéjon, rồi một hôm cô bạn tên Gracia Stiirmer thách tôi đến nói chuyện với ông. Truyen8.mobi
Và Rosa đã làm thế. Hôm ấy cô nói chuyện với ông suốt gần ba tiếng, trong lúc buổi chiều như dài ra và làn hơi mát từ mặt nước bốc lên. Và Litvinoff - hài lòng vì sự chú ý của cô gái da trắng tóc đen này, vui vì cô hiểu được một chút tiếng Yiddish, đột nhiên thấy lòng tràn ngập niềm khao khát ông chưa từng biết đã mang trong mình suốt bao năm - trở nên hoạt bát, làm cho cô vui bằng những câu chuyện, những trích dẫn thơ ca. Tối hôm đó Rosa trở về nhà với niềm vui lâng lâng. Trong số đám con trai ở trường đại học đầy kiêu ngạo, chỉ biết đến mình, với mái tóc chuốt óng mượt và những câu chuyện rỗng tuếch về triết học, cả một vài tay chuyên cường điệu bày tỏ tình yêu khi thấy tấm thân trần của cô, chẳng gã nào có vốn sống bằng nửa Litvinoff. Chiều hôm sau, khi học xong, Rosa vội vã trở lại quán cà phê. Litvinoff đang chờ cô ở đó, và một lần nữa họ nói chuyện đầy hào hứng: về âm thanh của tiếng đàn cello, những bộ phim trí tuệ, những kỷ niệm cả hai đều nhớ lại khi thấy mùi nước biển. Chuyện này diễn ra trong hai tuần. Họ có rất nhiều điểm chung, nhưng giữa hai người lơ lửng một sự khác biệt nặng nề, u tối kéo Rosa lại gần hơn, trong nỗ lực nắm lấy dù chỉ là phần nhỏ nhất của nó. Nhưng Litvinoff rất hiếm khi nói về quá khứ của mình và tất cả những gì ông đã đánh mất. Và không một lần nào ông nhắc tới công việc mình đã bắt tay làm vào các buổi tối bên chiếc bàn viết cũ trong căn phòng nơi ông sống, cuốn sách sau này sẽ trở thành kiệt tác của ông. Tất cả những gì Litvinoff nói là ông dạy thêm ở một trường Do Thái. Rosa khó mà tưởng tượng ra người đàn ông đang ngồi đối diện với mình - đen như một con quạ trong chiếc áo khoác, xúc động vì sự trang nghiêm của một bức ảnh cũ - bị vây xung quanh bởi một lũ trẻ cười đùa, hò hét. Phải đến hai tháng sau, Rosa viết, trong những khoảnh khắc buồn đầu tiên dường như đã len qua cánh cửa sổ để mở mà chúng tôi không nhận ra, làm xáo trộn bầu không khí loãng xuất hiện cùng với tình yêu chớm nở, Litvinoff mới đọc cho tôi nghe những trang đầu tiên của Lịch sử tình yêu.
Chúng được viết bằng tiếng Yiddish. Sau này, với sự giúp đỡ của Rosa, Litvinoff đã dịch chúng sang tiếng Tây Ban Nha. Bản thảo gốc được viết tay bằng tiếng Yiddish đã mất khi nhà của Litvinoff bị ngập lúc họ đang đi lên núi. Tất cả những gì còn lại là một trang duy nhất Rosa lấy lại được khi nó đang trôi nổi trên mặt của khối nước cao tới sáu mươi phân trong phòng viết của Litvinoff. Dưới sàn nhà, tôi trông thấy chiếc nắp vàng của cây bút ông luôn bỏ trong túi, bà viết, và tôi phải thò tay đến khi nước ngập tới vai mới với tới nó. Mực đã phai, ở một số chỗ không đọc được chữ. Nhưng cái tên ông đã đặt cho bà trong cuốn sách của mình, cái tên thuộc về mọi người phụ nữ trong cuốn Lịch sử, vẫn có thể nhận ra trong nét chữ nghiêng nghiêng của Litvinoff ở cuối trang viết. Truyen8.mobi
Khác với chồng mình, Rosa Litvinoff không phải nhà văn, tuy nhiên lời giới thiệu được dẫn dắt bởi trí thông minh thiên bẩm, và xuyên suốt được bao trùm - hầu như mang tính trực giác - bởi những đoạn dừng, gợi ý, bỏ lửng mà toàn bộ hiệu ứng là một cảnh tranh tối tranh sáng khiến độc giả có thể hình dung theo cách của riêng mình. Bà mô tả ô cửa sổ mở và giọng Litvinoff run lên vì xúc động ra sao khi ông đọc cho bà nghe từ đầu, nhưng bà không nói gì về chính căn phòng - như vậy chúng ta được để cho tự suy đoán rằng đó chắc là phòng của Litvinoff với chiếc bàn viết từng một thời thuộc về con trai bà chủ nhà, ở góc có khắc những từ quan trọng nhất đối với mọi tín đồ Do Thái, Shema yisrael adonai elohanu adonai echad, để mỗi lần Litvinoff ngồi xuống viết ở đầu bàn dốc xuống, ông sẽ chủ ý hoặc vô thức bật lên một câu cầu nguyện - không nói gì về chiếc giường hẹp nơi ông ngủ hay đôi tất ông đã giặt và vắt đêm trước, giờ nằm xẹp như hai con vật kiệt sức trên lưng ghế, không nói gì về bức ảnh lồng khung đơn, dựng theo góc sao cho quay mặt về tấm giấy dán tường bong tróc (thứ mà chắc Rosa đã nhìn khi Litvinoff xin lỗi để đi theo hành lang ra nhà vệ sinh), hình một đứa con trai và một đứa con gái đang khép chặt hai cánh tay bên người, hai bàn tay nắm chặt, hai đầu gối để trần, đứng yên tại chỗ trong khi bên ngoài, ở phía góc xa của khung ảnh, bóng chiều đang chầm chậm xa chúng. Và dù cho Rosa mô tả một thời gian sau bà đã cưới con quạ đen của mình ra sao, bố bà qua đời rồi căn nhà lớn thời thơ ấu có khu vườn tỏa mùi ngọt ngào bị bán thế nào và bằng cách nào đó họ kiếm được tiền, họ đã mua căn nhà gỗ nhỏ một tầng màu trắng trên vách đá phía trên vùng Valparaíso, rồi Litvinoff có thể nghỉ việc ở trường một thời gian và viết lách vào hầu hết các buổi chiều, buổi tối, nhưng bà không nói gì về cơn ho dai dẳng của Litvinoff - nguyên nhân thường khiến ông phải ra ngoài hiên vào lúc nửa đêm, nơi ông đứng nhìn ra ngoài làn nước đen thẫm, bà không nói gì về những lần im lặng kéo dài của ông, cũng không nhắc đến chuyện đôi khi tay ông bị run hay chuyện bà chứng kiến ông già đi trước mắt mình như thế nào, như thể thời gian với ông trôi nhanh hơn với mọi thứ xung quanh ông.

Mời bạn theo dõi tiếp chương 3 tại: http://truyen8.mobi/t25446-lich-su-tinh-yeu-chuong-3.html

descriptionChếtRe: Lịch Sử Tình Yêu

more_horiz
privacy_tip Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết
power_settings_newLogin to reply