PHẦN THỨ NHẤT
CHIẾN CUỘC ĐÔNG XUÂN 1953-1954
BỐI CẢNH CỦA TRẬN QUYẾT CHIẾN CHIẾN LƯỢC

 

BỐI CẢNH VÀ TÌNH HÌNH ĐỊA BÀN ĐIỆN BIÊN PHỦ*

I-BỐI CẢNH

Đến năm 1953, cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp tiến hành ở Việt Nam, Lào, Campuchia đã bước sang năm thứ tám.

Tình hình nguy khốn của quân Pháp trên chiến trường Đông Dương vào đầu năm 1953 đã buộc đế quốc Pháp phải có những phương sách mới, cấp thiết để cứu vãn tình thế. Chính phủ Pháp cho rằng phải tập trung mọi cố gắng tìm ra một "lối thoát danh dự", "lối thoát trong thắng lợi"; muốn đạt được mục tiêu đó, trước mắt cần ra sức đẩy mạnh chiến tranh, giành thắng lợi quân sự tương đối lớn.

Vào giữa năm 1953, được sự thoả thuận của Mỹ, Chính phủ Pháp chỉ định tướng Nava làm Tổng Chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương, thay tướng Xalăng. Mặc dầu chưa nổi tiếng như tướng Đờ Lát Đờ Tátxinhi, nhưng Nava là một nhân tài quân sự trong hàng tướng trẻ của quân đội Pháp lúc bấy giờ, có tri thức quân sự và nhãn quan chiến lược. Sau một thời gian ngắn điều tra nghiên cứu chiến trường Đông Dương, Nava đã phác hoạ một kế hoạch chiến lược tương đối hoàn chỉnh nhằm cải biến tình hình, hòng chuyển bại thành thắng và trong một thời gian ngắn giành thắng lợi chiến lược có tính quyết định.

Về quân sự, Nava và các tướng tá Pháp - Mỹ nhận định rằng tình hình chiến sự ngày càng bất lợi đối với quân đội viễn chinh Pháp, quân đội của đối phương đã lớn mạnh hơn nhiều, có bộ đội chủ lực rất thiện chiến, bộ đội địa phương quen thuộc chiến trường, có lực lượng cơ động mạnh gồm nhiều đại đoàn trang bị tương đối tốt, tinh thần chiến đấu anh dũng, có khả năng mở những chiến dịch quy mô tương đối lớn.

Chiến tranh du kích phát triển cao đã giam chân và tiêu hao nhiều sinh lực của chúng. Trong khi đó lực lượng quân viễn chinh Pháp ngày càng lâm vào tình trạng phân tán và bị động. Phần lớn lực lượng phải làm nhiệm vụ phòng ngự trong hàng ngàn đồn bốt trên khắp các chiến trường. Lực lượng chiếm đóng địa phương đã suy yếu, lực lượng tổng dự bị càng suy yếu hơn, thiếu hẳn một lực lượng cơ động chiến lược mạnh để đối phó với các cuộc tiến công của chủ lực ta, hoặc để mở những cuộc phản công giành lại quyền chủ động.

Từ tình hình thực tế đó, Nava thấy phải thay đổi tình thế, trên cơ sở xây dựng một "quân đoàn tác chiến" mạnh hơn chủ lực ta, lấy việc gấp rút tập trung một lực lượng cơ động chiến lược đủ sức tiến công và tiêu diệt chủ lực ta làm biện pháp chủ yếu để thoát khỏi tình trạng bị động phòng ngự, tiến tới giành thế chủ động. Biện pháp tăng cường lực lượng cơ động chiến lược của Nava là ráo riết tăng cường quân nguỵ thay thế quân chiếm đóng Âu – Phi, xin thêm viện binh, chấn chỉnh biên chế, rút gọn cơ quan.
Theo kế hoạch của Nava thì quân đội Pháp trong Thu Đông năm 1953 sẽ tiến hành phòng ngự chiến lược ở miền Bắc, đến mùa Xuân năm 1954, tiến công chiến lược ở miền Nam, tới Thu Đông năm 1954 sẽ chuyển lực lượng cơ động chiến lược ra Bắc Bộ thực hiện các đòn tiến công chiến lược, tiêu diệt một bộ phận quan trọng lực lượng ta, giành thắng lợi quân sự to lớn, kết thúc chiến tranh trong vòng 18 tháng, buộc ta phải đàm phán trong tình thế có lợi cho chúng. Nếu không chấp nhận những điều kiện của Pháp thì chúng sẽ tiến công tiêu diệt chủ lực ta!

Kế hoạch Nava được Hội đồng Quốc phòng Pháp thông qua ngày 24-7-1953 và được đánh giá cao trong chính giới Pháp - Mỹ hồi bấy giờ, được coi là một "kế hoạch táo bạo, kiên quyết, có cơ sở vững chắc", "cho phép hy vọng đủ mọi điều".

Ngày 1-8-1953, tướng Nava trở lại Đông Dương để triển khai thực hiện kế hoạch. Trong thư động viên binh sĩ ngày 25-8, Nava viết: Năm nay, năm 1953, trước khi một cuộc hành quân nữa mở màn, tôi cảm hứng về khẩu hiệu của Thống chế Đờ Lát Đờ Tátxinhi mà ban cho các bạn một khẩu hiệu: "Phải ra tay trước, phải hành động nhanh hơn đối phương, phải điều khiển chiến trận". Khẩu hiệu đó là ''quyền chủ động".

Nava tập trung ở đồng bằng Bắc Bộ 44 tiểu đoàn (trên 50% lực lượng cơ động toàn Đông Dương) mở liên tiếp bốn cuộc hành quân lớn ra vùng Hưng Yên, Hải Dương, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình... hòng đẩy ta vào thế đối phó bị động, mất khả năng tiến công. Nổi bật là cuộc hành quân "Hải Âu" từ ngày 15-10 đến ngày 6-11-1953 với trên 30.000 quân, phần lớn là lính Âu - Phi có xe tăng, xe lội nước và không quân yểm trợ đánh ra tây nam Ninh Bình.

Sau cuộc hành quân "Hải Âu", Nava hí hửng cho rằng triển khai kế hoạch là thuận lợi và đã giành được những thắng lợi hiệp đầu. Chính phủ Pháp cũng hết sức lạc quan, tin tưởng thắng lợi của kế hoạch Nava. Tại Quốc hội Pháp, ngày 28-10-1953, Thủ tướng Lanien đã tuyên bố: "lực lượng của ta đang trên đà phát triển về người và trang bị, còn lực lượng của Việt Minh thì có vẻ không còn ở đỉnh cao của nó nữa".

Về phía ta, Trung ương Đảng đã dự đoán âm mưu mới của thực dân Pháp và Mỹ tăng cường lực lượng mở rộng chiến tranh xâm lược Đông Dương, đã thấy rõ dần những nét chính trong kế hoạch Nava, kịp thời phân tích tình hình, nắm vững tư tưởng chỉ đạo và phương hướng chiến lược cơ bản, xác định chủ trương tác chiến trong Đông Xuân 1953-1954 là: sử dụng một bộ phận chủ lực mở những cuộc tiến công vào những hướng địch sơ hở, đồng thời tranh thủ tiêu diệt địch trong vận động ở những hướng địch có thể đánh sâu vào vùng tự do của ta, trong lúc đó đẩy mạnh chiến tranh du kích ở khắp các chiến trường địch hậu và tích cực chuẩn bị mọi sự cần thiết cho bộ đội chủ lực rảnh tay làm nhiệm vụ.

Từ chủ trương trên, Bộ Tổng tư lệnh đã đề ra kế hoạch tác chiến chiến lược Đông Xuân 1953-1954 như sau:

- Sử dụng một bộ phận chủ lực mở cuộc tiến công lên hướng Tây Bắc, tiêu diệt quân địch chiếm đóng Lai Châu, giải phóng toàn bộ khu vực Tây Bắc.

- Phối hợp với Quân giải phóng Pathét Lào mở cuộc tiến công ở Trung - Hạ Lào, tiêu diệt sinh lực địch, mở rộng vùng giải phóng Lào.

- Đẩy mạnh chiến tranh du kích sau lưng địch ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, củng cố phát triển các căn cứ du kích, phối hợp chặt chẽ với các cuộc tiến công trên.

- Ở hướng Liên khu V, chỉ để lại một bộ phận chủ lực nhỏ cùng lực lượng vũ trang địa phương tích cực đối phó với âm mưu địch xâm phạm vùng tự do, sử dụng đại bộ phận chủ lực của Liên khu V mở cuộc tiến công lên hướng Tây Nguyên, tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, giải phóng một bộ phận đất đai.

Lựa chọn hướng tiến công vào Tây Bắc, Trung - Hạ Lào, Tây Nguyên, là những hướng địch có nhiều sơ hở, ta sẽ có điều kiện thuận lợi để tiêu diệt chúng, ta sẽ kéo địch vào các hướng không có lợi cho chúng về địa hình, về sử dụng binh khí kỹ thuật, vận chuyển tiếp tế và cơ động lực lượng cũng như tăng viện.

Nếu điểm quan trọng trong kế hoạch Nava là tập trung binh lực, xây dựng khối cơ động chiến lược thật mạnh để đối phó với các cuộc tiến công của ta, và hơn thế nữa, để mở những cuộc tiến công lớn tiêu diệt chủ lực ta, thì điều mấu chốt trong trong kế hoạch tác chiến Đông Xuân 1953-1954 của ta là giữ vững chủ động, kiên quyết buộc địch phải phân tán lực lượng, phá vỡ khối cơ động tập trung của chúng, điều động từng bộ phận chủ lực của địch ra những hướng khác nhau, chọn những hướng thuận lợi để tiêu diệt chúng.

Trung tuần tháng 11-1953, sau khi Đại đoàn 320 giành thắng lợi trong chiến dịch phản công tây nam Ninh Bình, đánh thắng cuộc hành quân "Hải Âu" của địch, buộc chúng phải rút khỏi Nho Quan, quân và dân ta trên khắp các chiến trường toàn quốc chủ động tiến quân vào các hướng chiến lược đã xác định.

Ngày 15-11-1953, Đại đoàn 316 được lệnh hành quân lên Tây Bắc, mở cuộc tiến công giải phóng Lai Châu. Việc phát hiện sự di chuyển của chủ lực ta lên hướng Tây Bắc, đặt Bộ Chỉ huy quân Pháp trước những vấn đề mới: Chủ lực ta mở cuộc tiến công vào đồng bằng Bắc Bộ hay Tây Bắc? Nếu chủ lực ta mở cuộc tiến công vào Tây Bắc thì làm thế nào để bảo đảm an toàn cho lực lượng của chúng ở Lai Châu? Nhất là làm thế nào để bảo vệ Thượng Lào? Đây là sự bất ngờ lớn đối với địch, vì Nava vẫn chờ đợi một cuộc giao chiến với chủ lực ta trên thế mạnh của khối cơ động chiến lược đã được tập trung.

Sự điều quân của ta lên Tây Bắc buộc địch phải đối phó, Nava bị động cho sáu tiểu đoàn Âu - Phi tinh nhuệ nhảy dù chiếm Điện Biên Phủ vào ngày 20, 21-11-1953, Nava cho rằng chiếm Điện Biên Phủ làm bàn đạp có thể giữ vững được Lai Châu, bảo vệ được Thượng Lào, tiến công mở rộng ra vùng Tây Bắc. Việc chiếm đóng Điện Biên Phủ, không có trong kế hoạch Nava.

Địch nhảy dù xuống Điện Biên Phủ, một tình huống mới xuất hiện, nhưng lại nằm trong phạm vi phán đoán của ta: nếu Tây Bắc bị quân ta uy hiếp, địch sẽ phải tăng viện lên hướng đó, phải phân tán một bộ phận lực lượng cơ động chiến lược lên hỗ trợ cho Tây Bắc, che chở cho Thượng Lào.

Ngày 23-11-1953, trong hội nghị phổ biến kế hoạch tác chiến Đông Xuân, đồng chí Võ Nguyên Giáp đã phân tích tình hình và ý định đánh chiếm Điện Biên Phủ, rút ra kết luận quan trọng: "Vô luận rồi đây địch tình thay đổi thế nào, địch nhảy dù xuống Điện Biên Phủ căn bản là có lợi cho ta. Nó bộc lộ mâu thuẫn của địch giữa chiếm đóng đất đai với tập trung lực lượng, giữa chiếm đóng chiến trường rừng núi với củng cố chiến trường đồng bằng"1  .

Ta chủ trương kiên trì kế hoạch tiến công giải phóng Lai Châu, tăng thêm lực lượng cho hướng Tây Bắc. Đại đoàn 316 đang hành quân được lệnh gấp rút tiến công tiêu diệt địch ở Lai Châu, đồng thời cho một cánh quân tiến nhanh về phía bắc Điện Biên Phủ nhằm chia cắt địch ở Điện Biên Phủ lên. Ngày 7-12-1953, Đại đoàn 308 được lệnh hành quân lên Điện Biên Phủ. Phát hiện lực lượng chủ lực ta tiến lên Tây Bắc, ngày 3-12, Nava quyết định rút bỏ Lai Châu, co lực lượng về Điện Biên Phủ. Theo Nava, Điện Biên Phủ có giá trị chiến lược tốt hơn, vừa để phòng thủ, vừa có sân bay khả dĩ tiếp nhận được các loại máy bay hiện đại ở Đông Dương. Nava lại cho rằng quân ta đã tiến lên Tây Bắc thì "tương kế tựu kế" thu hút lực lượng của ta vào Điện Biên Phủ và khi quân ta tiến công Điện Biên Phủ chắc chắn sẽ bị tổn thất nặng nề. Như vậy, đối với chúng, đứng vững chân ở Tây Bắc, Thượng Lào được an toàn, đồng bằng Bắc Bộ không bị tấn công. Thế là Nava hạ quyết tâm gấp rút tăng cường lực lượng, biến Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh.

Đến ngày 15-12-1953, quân địch ở Điện Biên Phủ đã lên đến 12 tiểu đoàn, hình thành một hệ thống tập đoàn cứ điểm lớn tại vùng rừng núi Tây Bắc.

Trong những ngày đầu tháng 12-1953, tình hình cả địch và ta trên chiến trường Bắc Bộ có những diễn biến mau lẹ ảnh hưởng tới bước đi chiến lược của cả hai bên. Ngày 6-12, quân Pháp rút khỏi Lai Châu. Ngày 7-12 Bộ Chỉ huy tiền phương của Bộ Tổng tư lệnh cho Đại đoàn 316 chặn đánh, tiêu diệt quân địch rút từ Lai Châu về Điện Biên Phủ. Sau 10 ngày chiến đấu, Đại đoàn 316 đã tiêu diệt 24 đại đội, giải phóng toàn bộ khu vực Lai Châu (chỉ còn 10 tên Pháp, 175 tên lính nguỵ chạy được về Điện Biên Phủ).

Cùng thời gian, ta cùng bạn mở mặt trận tiến công Trung Lào. Trung đoàn 10 diệt Tiểu đoàn 27 Angiêri, 1 đại đội pháo 105 ly, 1 đại đội thuộc Tiểu đoàn 2 Marốc... làm rung chuyển hệ thống phòng ngự của địch ở Trung Lào. Trung đoàn 66 diệt 1 tiểu đoàn Marốc tại Pà Cuội. Tiếp đó, Trung đoàn 101 cùng lực lượng bạn đánh tan cụm quân địch từ cầu Bi Lan đến Bản Bay, giải phóng Nhommarát. Trên đường số 8, trước sức uy hiếp của Trung đoàn 101 và lực lượng bạn, Tiểu đoàn 9 Tabo hoảng sợ, đốt xe pháo rồi chạy, toàn bộ hệ thống phòng ngự của địch ở Khăm Muộn bị vỡ tung. Địch ở Thàkhẹt tháo chạy. Tỉnh Khăm Muộn được giải phóng. Trước tình hình đó, Nava vội vã điều hai binh đoàn cơ động và một số đại đội lẻ từ Bắc Bộ sang Trung Lào, lập tập đoàn cứ điểm Xênô.

Như vậy, đến lúc này, khoảng 20 tiểu đoàn cơ động chiến lược của địch đã điều đi khỏi đồng bằng Bắc Bộ, phân tán đối phó với ta ở Tây Bắc và Trung Lào.

Sau khi phân tích tình hình mọi mặt của ta và địch, Bộ Chính trị Trung ương Đảng và Tổng Quân uỷ hạ quyết tâm: Tập trung đại bộ phận lực lượng chủ lực thiện chiến của ta lên mặt trận Điện Biên Phủ, mở chiến dịch tiến công tiêu diệt những lực lượng tinh nhuệ nhất của địch trong tập đoàn cứ điểm mạnh nhất của chúng trên chiến trường Đông Dương này. Mặt trận Điện Biên Phủ trở thành mặt trận quan trọng nhất vì chủ lực tinh nhuệ của địch đang bị kìm giữ ở đây. Quyết tâm mở chiến dịch tiến công vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ trong chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954 là một quyết tâm chiến lược lớn trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta nhằm đánh thắng những cố gắng cao nhất, hình thức phòng ngự mới nhất của địch, tạo ra cục diện mới trong cuộc chiến tranh Đông Dương. Thắng lợi của chiến dịch này sẽ mở đường cho quân đội ta trưởng thành thêm một bước, thúc đẩy cuộc đấu tranh vũ trang của nhân dân ta phát triển. Thắng lợi của chiến dịch này không những sẽ tiêu diệt được một bộ phận quan trọng sinh lực tinh nhuệ của địch (1/5 lực lượng cơ động toàn Đông Dương lúc bấy giờ), giải phóng một vùng đất đai rộng lớn, đánh thắng kế hoạch chiến lược của Nava, mà còn ảnh hưởng lớn đến tình hình quân sự và chính trị trong nước và trên cả chiến trường ba nước Đông Dương.

Cuối tháng 12-1953, các đại đoàn chủ lực của ta tiếp tục hành quân lên Điện Biên Phủ. Ngày 5-1-1954, đồng chí Võ Nguyên Giáp, Đại tướng Tổng Tư lệnh, Bí thư Tổng Quân uỷ, được Bộ Chính trị Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh giao nhiệm vụ trực tiếp làm Chỉ huy trưởng kiêm Bí thư Đảng uỷ mặt trận, lên đường lên Điện Biên Phủ.
_______________________________
1. Điên Biên Phủ - Văn kiện Đảng, Nhà nước, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.446.

Nguồn https://thoquandoi.blogspot.com/2021/11/ien-bien-phu-hop-tuyen-cong-trinh-khoa.html