Thân phận tình yêu !

Hôm nay tôi đi tìm gặp một con người đặc biệt! Tôi biết ông qua câu chuyện của những bậc tiền bối cách mạng nơi miền đất Khu V anh hùng và qua cuốn tiểu thuyết Tiếng cồng Ama của nhà văn Dương Kiện. Cuộc đời ông như cuốn sử thi về chàng trai xứ Quảng đi theo cách mạng, theo Bác Hồ từ năm 14 tuổi. Ông trải qua 2 cuộc chiến tranh ác liệt của dân tộc cùng với 4 năm chiến đấu trong đội hình quân tình nguyện Việt Nam tại Salavan - Lào. Đặc biệt trong 10 năm từ 1961-1971, ông được biệt phái làm Bí thư huyện ủy Nam Sông Ba (tỉnh Đắc Lắc) rồi từ đó trở thành một Ama (người cha) của buôn làng Tây Nguyên. Để hòa mình vào cuộc sống với đồng bào, ông đã đóng khố, để tóc dài, cà răng, phơi nắng, đi nương, làm rẫy…và học thông thạo các thứ tiếng Lào, Ê đê, Gia rai…Ông là Ama-Trang (Phạm Thành Hân). Cuộc đời ông đầy biến cố và hy sinh thật khó kể hết. Câu chuyện hôm nay tôi muốn kể là về tình yêu đặc biệt của một người lính đã đi qua mọi giông tố cuộc đời…

Đà Nẵng ngày mưa tầm tã, trong căn nhà nhỏ của đồng đội Võ Thành Tuất (người viết bản cam kết với người yêu sẽ đợi nhau trở về sau chiến tranh), Ama-Trang 85 tuổi, dáng người cao, gầy nhưng nhanh nhẹn hoạt bát và minh mẫn, sắc sảo vô cùng. Sau cái bắt tay thật chặt và lời chào chân thành từ thế hệ hậu sinh non trẻ, tôi hỏi ông câu đầu tiên: “Thưa bác, hôm qua cháu đọc tiểu thuyết Tiếng cồng A ma của nhà văn Dương Kiện, đọc đến đoạn bác đi hoạt động bí mật ở Tây Nguyên 10 năm không về, vợ bác tưởng chồng hy sinh nên đi lấy chồng khác. Cháu buồn quá!...” Tôi chưa nói hết câu thì ông òa khóc, khóc nức nở đến mức người bạn già Võ Thành Tuất 80 tuổi ngồi bên cũng khóc theo. Tôi thực sự bối rối vì chỉ bởi 1 câu hỏi mà làm hai người lính già đã đi gần trọn cuộc đời phải rơi nước mắt. Ama-Trang vừa nín cơn khóc vừa nói: “Tui và bà ấy chia tay đã 40 năm nay, bà cũng đã mất được hơn 3 năm nhưng mỗi khi nghĩ lại chuyện đó tui lại không cầm được nước mắt. Thực sự là tui và bà ấy còn rất yêu nhau nhưng vì chiến tranh mà tui phải tự tay viết đơn xin ly hôn trong khi lòng còn yêu bà ấy tha thiết…

Năm 1953, tui đánh trận Tha Tăng-Salavan (Lào) và vị trúng đạn làm vỡ đầu gối trái, đứt gân nên được chuyển về hậu phương. Nhờ bà con Lào, Việt Nam mà tui được đưa bằng cáng suốt cả tháng trời về tới bệnh xá Phước Lộc, Quảng Ngãi. Tại đây tui quen Hoa, cô y tá xứ Quảng đã tận tình chăm sóc tôi suốt mấy tháng trời. Sau khi vết thương bình phục, tôi về ở nhà Hoa một thời gian, chúng tui yêu nhau và quyết định đi tới hôn nhân”. Năm 1954 Ama-Trang cưới bà Nguyễn Thị Hoa trong niềm hạnh phúc vô bờ. Ngay sau đó ông lên Tàu Kilinski (của Ba Lan) tập kết ra Bắc theo hiệp định đình chiến. Ama-Trang đưa vợ ra Việt Trì, rồi Hà Nội sinh sống, hai người có một cô con gái tên Phạm Thị Thanh Trang. Những năm tháng xa miền Nam dù khó khăn vất vả nhưng hạnh phúc vì có vợ có chồng và tình yêu mãnh liệt. Năm 1961, tình hình chiến sự miền Nam phức tạp và đau thương. Ama-Trang học xong lớp tiếng Trung Quốc và từ chối đi công tác tại Đại sứ quán Việt Nam ở Bắc Kinh để xung phong trở lại chiến trường với lời nói dối gia đình là đi học ở Liên Xô…

Từ đây Ama-Trang trở thành người Ê đê, Gia rai, Bana…của núi rừng. Trận càn năm 1964 khiến ông bị thương nặng và rơi xuống vực sâu, đồng đội tưởng ông hy sinh nên đã kể lại với vợ ông như vậy. Ai ngờ hai cha con thợ săn đi rừng bẫy nai tìm được ông trong đêm tối dưới lòng sông bởi nghe tiếng Radio từ ngực áo phát ra: Đây là đài tiếng nói Việt Nam, phát thanh từ Hà Nội, Thủ đô nước…”. Ở Hà Nội, bà Hoa mặc dù không nhận được giấy báo tử nhưng nghe đồng đội báo tin nên đã lập bàn thờ chồng. Năm 1967 bà đi bước nữa với một cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc... Trở lại với già làng Ama-Trang, sau khi bình phục, ông trở lại với buôn làng và tiếp tục hoạt động trong bí mật tới năm 1971…

Do sức khỏe yếu, tổ chức đưa ông ra Hà Nội điều trị. Ông về Bắc trong niềm hạnh phúc khôn tả khi nghĩ đến cảnh về nhà gặp lại vợ và con gái giờ đã 17 tuổi rồi…Vậy mà số phận trớ trêu thay, ông bước chân vào nhà nhìn thấy trên ban thờ là tấm ảnh của chính mình và trong phòng hai vợ chồng lại treo bộ quần áo của người đàn ông khác…Niềm vui tan biến bị xâm chiếm bởi sự sụp đổ và đau đớn đến tận cùng khi vợ ông cùng chồng mới và con gái bước vào nhà…Cả 4 con người đều vỡ òa trong xót xa và cay đắng…Ama-Trang thương yêu vợ con và đau khổ bao nhiêu thì vợ ông lại hận mình và oán trách bản thân bấy nhiêu…Người cha dượng thì cảm thấy nhục nhã, xấu xa và dặt vặt bản thân bởi mình cướp vợ của một người lính đi chiến đấu bảo vợ đất nước…Cô con gái rối bời, khổ sở vì thương cha và mẹ…Sau những ngày trăn trở suy nghĩ, Ama-Trang quyết định trở lại miền Nam và viết đơn xin ly hôn để vợ ông được hợp pháp, danh chính ngôn thuận sống với người chồng mới…Ông ra đi để lai nỗi niềm vô bờ bến cho cả 4 con người nhưng đó là giải pháp tốt nhất cho hoàn cảnh bấy giờ !


Điều cảm động nhất là suốt 57 năm qua, từ 1954 tới tận hôm nay ông vẫn luôn mang theo bên mình tấm hình bà Hoa như một điều vô cùng thiêng liêng, quý giá. 85 tuổi rồi, đi qua bom đạn hai cuộc chiến tranh, không nao núng, run sợ trước kẻ thù, trung kiên với Tổ quốc và nhân dân nhưng ông lại rơi nước mắt khi nhắc về bà…
Bài thơ ông viết tặng bà khi ở chiến trường năm 1963:

Bông Trang (tên vợ và con) bên đất quê hương
Gửi sang anh tặng người thương bên cầu
Dù cho gian khổ dài lâu
Quyết chờ thắng lợi, gửi câu hẹn thề

Liệu có được bao nhiêu tình yêu như thế !


Chia tay tôi ông còn đọc hai câu thơ để nói tâm trạng mình:
Cả đời chiến đấu hy sinh
Chữ trung thì trọn, chữ tình lại vơi...

Nguồn Trung Úy