Học viện Cảnh sát Nhân dân là một trong hai trường đào tạo hàng đầu của Công an Nhân dân Việt Nam, đào tạo những sĩ quan có trình độ đại học và sau đại học cho lực lượng cảnh sát.
Học viện Cảnh sát trước đây trực thuộc Bộ Công an Việt Nam, tương đương với các Vụ, Văn phòng Bộ, Tổng cục... Về sau được tổ chức lại, trực thuộc Tổng cục Xây dựng lực lượng Bộ Công an, tương đương với các Cục, Công an các tỉnh địa phương.
Tiền thân của Học viện Cảnh sát Nhân dân là khoa Cảnh sát của trường Công an Trung ương (nay là Học viện An ninh nhân dân). Ngày 15 tháng 5 năm 1968, Bộ Công an ra Quyết định 514/CA/QĐ “Tách phân hiệu Cảnh sát nhân dân ra khỏi trường Công an Trung ương, thành lập trường riêng, có nhiệm vụ đào tạo bậc trung học cho lực lượng Cảnh sát nhân dân”, chính thức thành lập Trường Cảnh sát nhân dân. Về sau, ngày này được lấp làm ngày truyền thống của Học viện Cảnh sát Nhân dân.
Trường lấy mật hiệu là T18, trường sở ban đầu tại thôn Phong Vân, Ba Vì, Hà Tây, với 153 cán bộ giáo viên, công nhân viên và 1.789 học viên của 20 lớp học (trong đó có 6 lớp sơ học), đào tạo các hạ sĩ quan Cảnh sát.
Ngày 27 tháng 11 năm 1976, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định 231/CP “Công nhận Trường sĩ quan Cảnh sát nhân dân của Bộ Nội vụ thuộc hệ thống giáo dục Đại học quốc gia”. Trường đổi tên thành trường Đại học Cảnh sát nhân dân và bắt đầu đào tạo sĩ quan Cảnh sát bậc đại học.
Ngày 15 tháng 5 năm 1992, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ra Quyết định 998/QĐ/SĐH, giao nhiệm vụ cho trường Đại học Cảnh sát nhân dân đào tạo hệ Cao học (chuyên ngành Điều tra tội phạm). Ngày 24 tháng 5 năm 1995, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định 315/TTg giao nhiệm vụ đào tạo trên đại học cho trường Đại học Cảnh sát.
Ngày 15 tháng 11 năm 2001, Quyết định 969/2001/BCA(X13) của Bộ trưởng Bộ Công an nâng cấp từ trường Đại học Cảnh sát nhân dân lên Học viện Cảnh sát Nhân dân.
Nhiệm vụ nhà trường
1.Đào tạo sĩ quan cảnh sát với trình độ đại học và sau đại học. Tạo cán bộ nguồn cho lực lượng Công an Nhân dân Việt Nam;
2.Nghiên cứu các đề tài khoa học về phòng chống tội phạm cấp Quốc gia; Quản lý nhà nước về An Ninh Trật tự, Luật Hình sự, Hoạt động Tư pháp điều tra.
3.Hợp tác đào tạo quốc tế với các trường cảnh sát nước ngoài
Lãnh đạo Học viện
Giám đốc: Trung tướng GS,TS. Nguyễn Xuân Yêm
Phó giám đốc:
Thiếu tướng NGƯT-GS,TS. Nguyễn Huy Thuật
Thiếu tướng PGS,TS. Phạm Ngọc Hà
Thiếu tướng TS. Đặng Xuân Khang
Đại tá PGS,TS. NGƯT Nguyễn Thiện Phú
Đại tá PGS,TS. Trần Minh Chất
Lãnh đạo Học viện qua các nhiệm kỳ
Trung tá. Lê Quân
Đại tá. Trần Đức Trường
Đại tá. Phạm Minh
Thiếu tướng-GS.TS. Nguyễn Duy Hùng
Thiếu tướng. Nguyễn Trung Thành.
Giám đốc: Trung tướng-GS.TS. Nguyễn Xuân Yêm (5/2009-nay
Các phòng, ban chức năng
Phòng Hành chính tổng hợp
Phòng Tổ chức cán bộ
Phòng Công tác Đảng, công tác chính trị và công tác quần chúng
Phòng Hậu cần
Phòng Quản lý đào tạo
Phòng Quản lý đào tạo hệ Vừa làm vừa học
Khoa Sau đại học và Bồi dưỡng nâng cao
Phòng Quản lý học viên
Phòng Quản lý nghiên cứu khoa học
Phòng Quản lý nhà ăn
Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng cơ bản
Tạp chí Cảnh sát nhân dân
Các bộ môn
Bộ môn Mác - Lênin, Khoa học Xã hội và Nhân văn
Bộ môn Pháp luật
Bộ môn Tâm lý
Bộ môn Nghiệp vụ cơ sở
Bộ môn Quân sự võ thuật, Thể dục thể thao
Các Trung tâm nghiên cứu và thực hành
Trung tâm Nghiên cứu tội phạm học và phòng ngừa tội phạm
Trung tâm Thông tin khoa học và tư liệu giáo khoa
Trung tâm đào tạo và sát hạch lái xe
Trung tâm Ngoại ngữ - tin học
Học viện Cảnh sát trước đây trực thuộc Bộ Công an Việt Nam, tương đương với các Vụ, Văn phòng Bộ, Tổng cục... Về sau được tổ chức lại, trực thuộc Tổng cục Xây dựng lực lượng Bộ Công an, tương đương với các Cục, Công an các tỉnh địa phương.
Tiền thân của Học viện Cảnh sát Nhân dân là khoa Cảnh sát của trường Công an Trung ương (nay là Học viện An ninh nhân dân). Ngày 15 tháng 5 năm 1968, Bộ Công an ra Quyết định 514/CA/QĐ “Tách phân hiệu Cảnh sát nhân dân ra khỏi trường Công an Trung ương, thành lập trường riêng, có nhiệm vụ đào tạo bậc trung học cho lực lượng Cảnh sát nhân dân”, chính thức thành lập Trường Cảnh sát nhân dân. Về sau, ngày này được lấp làm ngày truyền thống của Học viện Cảnh sát Nhân dân.
Trường lấy mật hiệu là T18, trường sở ban đầu tại thôn Phong Vân, Ba Vì, Hà Tây, với 153 cán bộ giáo viên, công nhân viên và 1.789 học viên của 20 lớp học (trong đó có 6 lớp sơ học), đào tạo các hạ sĩ quan Cảnh sát.
Ngày 27 tháng 11 năm 1976, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định 231/CP “Công nhận Trường sĩ quan Cảnh sát nhân dân của Bộ Nội vụ thuộc hệ thống giáo dục Đại học quốc gia”. Trường đổi tên thành trường Đại học Cảnh sát nhân dân và bắt đầu đào tạo sĩ quan Cảnh sát bậc đại học.
Ngày 15 tháng 5 năm 1992, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ra Quyết định 998/QĐ/SĐH, giao nhiệm vụ cho trường Đại học Cảnh sát nhân dân đào tạo hệ Cao học (chuyên ngành Điều tra tội phạm). Ngày 24 tháng 5 năm 1995, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định 315/TTg giao nhiệm vụ đào tạo trên đại học cho trường Đại học Cảnh sát.
Ngày 15 tháng 11 năm 2001, Quyết định 969/2001/BCA(X13) của Bộ trưởng Bộ Công an nâng cấp từ trường Đại học Cảnh sát nhân dân lên Học viện Cảnh sát Nhân dân.
Nhiệm vụ nhà trường
1.Đào tạo sĩ quan cảnh sát với trình độ đại học và sau đại học. Tạo cán bộ nguồn cho lực lượng Công an Nhân dân Việt Nam;
2.Nghiên cứu các đề tài khoa học về phòng chống tội phạm cấp Quốc gia; Quản lý nhà nước về An Ninh Trật tự, Luật Hình sự, Hoạt động Tư pháp điều tra.
3.Hợp tác đào tạo quốc tế với các trường cảnh sát nước ngoài
Lãnh đạo Học viện
Giám đốc: Trung tướng GS,TS. Nguyễn Xuân Yêm
Phó giám đốc:
Thiếu tướng NGƯT-GS,TS. Nguyễn Huy Thuật
Thiếu tướng PGS,TS. Phạm Ngọc Hà
Thiếu tướng TS. Đặng Xuân Khang
Đại tá PGS,TS. NGƯT Nguyễn Thiện Phú
Đại tá PGS,TS. Trần Minh Chất
Lãnh đạo Học viện qua các nhiệm kỳ
Trung tá. Lê Quân
Đại tá. Trần Đức Trường
Đại tá. Phạm Minh
Thiếu tướng-GS.TS. Nguyễn Duy Hùng
Thiếu tướng. Nguyễn Trung Thành.
Giám đốc: Trung tướng-GS.TS. Nguyễn Xuân Yêm (5/2009-nay
Các phòng, ban chức năng
Phòng Hành chính tổng hợp
Phòng Tổ chức cán bộ
Phòng Công tác Đảng, công tác chính trị và công tác quần chúng
Phòng Hậu cần
Phòng Quản lý đào tạo
Phòng Quản lý đào tạo hệ Vừa làm vừa học
Khoa Sau đại học và Bồi dưỡng nâng cao
Phòng Quản lý học viên
Phòng Quản lý nghiên cứu khoa học
Phòng Quản lý nhà ăn
Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng cơ bản
Tạp chí Cảnh sát nhân dân
Các bộ môn
Bộ môn Mác - Lênin, Khoa học Xã hội và Nhân văn
Bộ môn Pháp luật
Bộ môn Tâm lý
Bộ môn Nghiệp vụ cơ sở
Bộ môn Quân sự võ thuật, Thể dục thể thao
Các Trung tâm nghiên cứu và thực hành
Trung tâm Nghiên cứu tội phạm học và phòng ngừa tội phạm
Trung tâm Thông tin khoa học và tư liệu giáo khoa
Trung tâm đào tạo và sát hạch lái xe
Trung tâm Ngoại ngữ - tin học
THÔNG TIN TUYỂN SINH NĂM 2013
KÝ HIỆU TRƯỜNG: CSH - TỔNG CHỈ TIÊU: 980
Ngành học | Mã ngành | Khối thi | Chỉ tiêu |
Các ngành đào tạo đại học | 980 | ||
- Điều tra trinh sát | D860102 | A, A1, C, D1 | |
- Điều tra hình sự | D860104 | A, A1, C, D1 | |
- Quản lý nhà nước về an ninh trật tự | D860109 | A, A1, C, D1 | |
- Kỹ thuật hình sự | D860108 | A, A1, C, D1 | |
- Quản lý, giáo dục cải tạo phạm nhân | D860111 | A, A1, C, D1 | |
- Tham mưu, chỉ huy vũ trang bảo vệ An ninh, Trật tự | D860112 | A, A1, C, D1 | |
- Ngôn ngữ Anh | D220201 | D1 |
- Phương thức tuyển sinh: Trường tổ chức thi tuyển sinh.
- Thí sinh phải qua sơ tuyển tại Công an tỉnh, TP trực thuộc Trung ương nơi đăng ký hộ khẩu thường trú
- Vùng tuyển sinh: Ngành ngôn ngữ Anh tuyển sinh trong toàn quốc. Các ngành còn lại tuyển sinh phía Bắc từ Quảng Bình trở ra.
- Trong tổng 980 chỉ tiêu có 40 chỉ tiêu gửi đào tạo đại học tại Học viện Kỹ thuật Quân sự, Học viện Hậu cần: Xét tuyển trong số thí sinh dự thi khối A, A1 các ngành Nghiệp vụ Cảnh sát.