Thật tình cờ tôi gặp con mắt còn lại ấy trên trang bìa cuốn Tranh Bửu Chỉ được bày trên một quầy sách bên sông Hương. Đây là cuốn sách duy nhất phát hành gồm những tác phẩm chọn lọc và những bài viết về Bửu Chỉ sau khi ông mất (1948-2002). Tôi sững sờ bởi biết bao ký ức trở về, vì chính nơi đây, trong quán cà phê Thiên Đường, bên con nước mênh mang trôi, ngỡ Bửu Chỉ vẫn ngồi cùng những ý tưởng rạo rực trong con tim. Và sắc màu bật lên với con mắt nhìn qua kẽ tay ấy, một tính cách mãnh liệt bên cạnh sự dịu dàng bao đời nay của Huế.

Nghệ thuật đứng về phía nước mắt

Sinh thời, có lần Bửu Chỉ đã bày tỏ, mình bắt đầu vẽ bởi sự ám ảnh từ nhạc Trịnh. Nhưng khác với sự thầm kín, trắc ẩn của Trịnh, họa sĩ Bửu Chỉ lại sôi nổi, dấn thân trong những cuộc đấu tranh của phong trào sinh viên, ngay những năm còn trên ghế nhà trường, từ 1968 - 1971. Sau khi tốt nghiệp Trường Luật ở Huế, Bửu Chỉ là Tổng thư ký Hội Sinh viên sáng tác Huế. Thời điểm này, những bức vẽ bút sắt của Bửu Chỉ như tiếng kèn ra trận. Nhiều cuộc đấu tranh trong sinh viên đòi tự do độc lập, chống giặc ngoại xâm, tạo nên làn sóng biểu tình lớn giơ cao những tranh cổ động của Bửu Chỉ. Ông cùng các bạn vừa đi vừa cất lên tiếng hát; tay trong tay hô vang khẩu hiệu đòi dân chủ. Ai ai cũng nhớ giọng hát ông vang lên khúc ca Việt Nam trên đường chúng ta đi. Dây đàn đứt, ngón tay bật máu nhưng lời ca chẳng bao giờ dứt. Cho đến một ngày đầu năm 1972, ông bị cầm tù 5 năm với tội chống lệnh nhập ngũ và tổ chức nổi loạn, bất phục tùng chính quyền.

Con mắt còn lại 361Buc-tranh-son-dau-cuoi-cung-cua-Buu-Chi

Bức tranh sơn dầu cuối cùng của Bửu Chỉ.
Như một chiến sĩ cảm tử, Bửu Chỉ không ngừng vẽ tranh thể hiện chí khí dân tộc với tiêu chí: “Mỹ cút, Ngụy nhào, hoà bình cho Tổ quốc”. Nếu giở cuốn Tranh Bửu Chỉ, ta mới thấy những bức tranh trong tù của ông thật dữ dội với những cái tên Ta phải thấy mặt trời, Một tuổi thơ chưa kịp lớn, Các thế hệ đi đày, Bầy quạ chiến tranh, Người nữ tù… Đó là những bàn tay bị xiềng xích cùng nhau đoàn kết, vươn lên về phía mặt trời, hay những bàn tay phá gãy xiềng xích giơ cao một cách quyết liệt trước sự sống còn của con người bị áp bức bóc lột. Hình tượng cánh tay là trục ý tưởng chính trong hàng trăm bức tranh của Bửu Chỉ được gửi ra và giương cao trong các cuộc diễu hành lớn trên đường. Sự tàn ác của kẻ thù không thể ngăn được sức sáng tạo ngày một mãnh liệt của người họa sĩ trẻ. Chúng đã tra tấn dã man, đánh giập bàn tay của Bửu Chỉ. Mặc cho sức đã kiệt trong bốn bức tường, người họa sĩ của đất Huế vẫn nhẫn nại sáng tác. Bởi ông đã xác định cuộc đời sáng tác của mình là phải đứng về phía nước mắt. Nước mắt khổ đau của con người, nước mắt của dân tộc trong cuộc đấu tranh vì mục đích hoà bình, dân chủ.
Sức sáng tạo sung mãn của Bửu Chỉ vào những năm 1973 và 1974; đúng thời gian nóng bỏng nhất của quân và dân ta trong cuộc tổng tiến công, tiến tới giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Đến nay, hàng trăm tác phẩm của ông vẫn còn được lưu giữ trong nhiều địa chỉ của bạn bè và Bảo tàng Lịch sử Huế.

Mắt Huế và sự ám ảnh của thời gian
Nếu những năm từ 1970 - 1974, tranh Bửu Chỉ là sự bày tỏ mạnh mẽ, hướng ngoại về nhân sinh quan và quan niệm về xã hội thì ít ai ngờ rằng sau 1975, ông lại chuyển đột ngột vẽ cõi bồng bềnh của trường sóng suy tưởng và sự thao thiết, day dứt về thân phận con người, trước con mắt của thời gian.

Sau này, ông vẽ chủ yếu bằng chất liệu sơn dầu với chủ đề chính về tính đối kháng giữa sự sống và cái chết, giữa hạnh phúc và khổ đau. Tính ngang tàng của ông trong thời đoạn xưa giờ đã chuyển động bằng sự đối chọi của màu sắc, đỏ đen với độ dày và mỏng của những lớp sơn. Ông rũ bỏ hết những chức vụ như Chủ tịch Hội Mỹ thuật Huế, Ủy viên Ban chấp hành Hội Mỹ thuật Việt Nam, kể cả “chân” biên chế của Tạp chí Sông Hương với ước vọng tìm lại chính mình trong hội họa.

Suốt hai thập niên 80 - 90, dường như hình ảnh con mắt và chiếc đồng hồ thường xuất hiện trong mỗi bố cục tranh của ông. Với các tác phẩm trừu tượng như Ai lăn hòn máu qua cầu hay Người đàn bà trên miệng núi lửa hoặc Hoài niệm về một cái lỗ và Sắc sắc không không…, tranh Bửu Chỉ đã mở ra một cánh cửa mới cho riêng mình, đúng như ông, luôn luôn tự bứt phá một cõi, chẳng giống ai.

Lại nhớ hồi ra Hà Nội dự tang lễ nhà văn Nguyễn Tuân, năm 1987, ông đã thuê xích lô đi quanh phố phường và Hồ Tây với bao suy tư về một đời văn Hà Nội đã ngã xuống. Rồi trở về Huế, một con mắt và mặt đồng hồ đã hiện lên tấm toan với hai chiếc kim chỉ đúng 10g30. Đó như một tiếng chuông thỉnh lên báo hiệu giây phút đặc biệt mà cõi người đã mất đi con người tài hoa ấy.
Nhiều tác phẩm của Bửu Chỉ gây ngạc nhiên cho nhiều người, kể cả dư luận mỹ học nước ngoài. Vì thế mà tranh của ông được nhiều nhà sưu tầm quốc tế mua sau những đợt ông mang đi triển lãm ở nước ngoài như Nga (1986), Paris (1988), Hồng Kông (1994). Năm 1995, ông còn được mời tham gia triển lãm “Quyền hy vọng” của Liên hiệp quốc cùng với 47 họa sĩ thuộc các nước trên thế giới. Có người gọi tranh của Bửu Chỉ là sự phá vỡ sự đơn điệu trong tư duy tạo hình và tạo nên các biến động nhiều chiều. Nhưng tranh ông bao giờ cũng nổi bật một tính cách Huế, trầm lắng và dữ dội. Chính vì lẽ này mà nhà nghiên cứu Cao Huy Thuần đã viết Bửu Chỉ là “giọt máu của Huế” và đã kết luận tranh Bửu Chỉ là ngôn ngữ của các tín hiệu quả không sai.

Đó là những tín hiệu về thời gian, về thân phận con người với bút pháp huyền ảo đã làm nên một phong cách rất Huế, rất Bửu Chỉ. Nhiều tác phẩm của ông đã đi vào các bảo tàng và các nhà sưu tập nổi tiếng như: Chân dung tự hoạ, Những khuôn mặt Chúa, Phật, Thời gian quay trong đầu, Chạy trốn thời gian, Cầu hồn, Sức nặng của thời gian, Bình vôi và chim câu, Hoài niệm về một cái lỗ… với tất cả vẻ đẹp trang nhã, hài hoà, sang trọng qua từng mảng màu xám trắng, lam nâu, xanh thẫm và trầm đỏ.

Khi trở về trụ sở Tạp chí Sông Hương, tôi mới hay một kỷ niệm thật khó quên đối với người họa sĩ độc đáo này. Đó là măng sét và logo của tạp chí do chính Bửu Chỉ thực hiện ngay từ khi anh mới về làm ở đây. Hình tượng con chim phượng hoá thân thành dòng Hương Giang, núi Ngự Bình đã trở thành biểu tượng cho nét văn hoá đất kinh kỳ một thuở. Một xứ sở của thơ ca, nhạc họa với các gương mặt có một không hai. Đó là Trịnh Công Sơn, là Điềm Phùng Thị, là Lê Bá Đảng và giờ đây là Bửu Chỉ.